Lý thuyết TOT động
Theo Myers (1984), doanh nghiệp mang thể xác định CTV mục tiêu nhưng thay đổi theo từng thời kỳ, do tác động của môi trường vi mô và vĩ mô, doanh nghiệp ko thể ngay tức thời hay nhanh chóng đạt tới CTV mục tiêu mà cần phải một quá trình điều chỉnh dần. Do đó, trong ngắn hạn, CTV của doanh nghiệp dao động quanh mức CTV mục tiêu đó và mang xu hướng đạt tới mức hoặc khoảng mục tiêu trong dài hạn.
cho thấy, bên dưới điểm V1, mức sử dụng nợ rất thấp nên giá tiền kiệt quệ tài chính khá thấp, khả năng vỡ nợ chưa cao. Tuy nhiên, từ điểm V1 tới V* , lúc đó doanh nghiệp tăng dần mức sử dụng nợ, giá tiền kiệt quệ tài chính khởi đầu tăng lên và loại trừ dần lợi ích của thuế từ nợ vay nhưng ko loại trừ hoàn toàn lợi ích từ thuế. Do vậy, trị giá doanh nghiệp tiếp tục tăng nhưng tỷ lệ tăng giảm dần cùng với việc gia tăng sử dụng nợ. Lúc đạt tới mức sử dụng nợ tại điểm V*, giá tiền kiệt quệ tài chính thăng bằng với lợi ích của thuế từ lãi vay. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp tiếp tục tăng mức sử dụng vượt qua điểm điểm V*, giá tiền kiệt quệ tài chính sẽ dần
vượt lợi ích của thuế từ lãi vay, do đó, từ điểm này trở đi, việc tăng nợ vay sẽ làm khuyến mại trị doanh nghiệp.
Tương tự, theo lý thuyết TOT động, tại mỗi thời khắc hoặc thời kỳ nhất định, doanh nghiệp thiết lập CTV mục tiêu là một mức (V*) hoặc một khoảng (từ điểm V1 tới V*) và việc lựa chọn CTV quanh mức mục tiêu đó. Nếu tỷ lệ nợ vay thấp hơn mục tiêu thì doanh nghiệp tăng vốn bằng cách phát hành thêm nợ. Trái lại, nếu tỷ lệ nợ vay cao hơn mục tiêu thì vốn cổ phần sẽ được sử dụng. Đây là cơ sở vật chất để quyết định CTV đúng đắn nhằm tối thiểu hóa giá tiền sử dụng vốn, rủi ro tài chính và tăng trị giá doanh nghiệp. Mặt khác, theo lý thuyết này, CTV mục tiêu khác nhau tại những thời kỳ do sự biến động của những yếu tố vi mô, vĩ mô trong nền kinh tế cũng như sự khác biệt về CTV mục tiêu giữa tất cả các nước do môi trường thiết chế, hệ thống tài chính, mức thuế suất và luật vỡ nợ.
Originally posted 2020-01-03 20:20:53.