Năng lực cạnh tranh của lao động Việt Nam

– Năng lực khó khăn của lao động Việt Nam trong so sánh với những nước và những nước thành viên ASEAN

Thống kê Diễn đàn Kinh tế Toàn cầu (WEF) năm 2017-2018 [97] chỉ ra Việt Nam với tới 10/12 trụ cột được cải thiện về chỉ số so với năm trước, trong đó xếp cao nhất là quy mô thị trường (31/137), tính hiệu quả của thị trường lao động (57/137), giáo dục cơ bản và y tế cũng được giám định khá tốt với thứ hạng 67/137; thương nghiệp cũng là một yếu tố to xúc tiến năng lực khó khăn của Việt Nam, tỷ lệ nhập khẩu/GDP xếp thứ 7/137 trong lúc tỷ lệ xuất khẩu/GDP xếp thứ 11/137. Tuy nhiên ở hầu hết những chỉ số còn lại Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình thấp. Đặc trưng giáo dục tập huấn bậc cao vẫn ở vị trí thấp (xếp thứ 84/137) cho thấy năng lực của người lao động lúc tham gia những hoạt động nghề nghiệp vẫn còn hạn chế. Vấn đề khó khăn nhất lúc làm kinh doanh tại Việt Nam thì ngoài khả năng tiếp cận tài chính, vốn ở mức khá thấp so với những nước láng giềng trong khu vực Đông Nam Á và những nước thu nhập trung bình thấp, chính là những vấn đề liên quan tới nguồn lực con người như lao động ko được tập huấn đầy đủ, tham nhũng, đạo đức nghề nghiệp và văn hóa làm việc.

Theo những tiêu chí giám định về hệ thống giáo dục, lao động chất lượng cao, tiếng Anh và sự thạo khoa học cao của lao động thì nói chung Việt Nam đều thua kém nhiều so với những nước Hàn Quốc, Trung Hoa, In-đô-nê-xia, Phi-líp-pin, Ma-lai-xia và Thái Lan. Với tiêu chí lao động chất lượng cao theo thang đo 10 điểm, Việt Nam chỉ đạt 3,25/10 điểm trong lúc Hàn Quốc đạt 7,12/10, Phi-líp-pin 5,8/10 và Ma-lai-xi-a đạt 4,5/10 điểm. Đặc trưng, trình độ tiếng Anh của lao động Việt Nam rất yếu, Việt Nam chỉ đạt 2,62/10 điểm trong lúc Phi-líp-pin đạt 5,4/10 điểm, Ma-lai-xi- a đạt 4,0/10 điểm, In-đô-nê-xia 3,0/10 điểm và Thái Lan 2,82/10 điểm

Nếu xét theo chỉ số thông thạo tiếng Anh EF EPI theo bài rà soát kỹ năng Anh ngữ của học trò trung học và sinh viên đại học, năm 2018, trong tổng số 88 nước được giám định, Việt Nam xếp thứ hạng số 41 với điểm số 53,12 với mức độ thông thạo được đánh gía Trung bình (Bảng 3.9). Trong khu vực ASEAN, Việt Nam cao hơn Thái Lan (xếp thứ 64), vượt In-đô-nê-xia (xếp thứ 51) và hơn hẳn My-an-ma và Cam-pu-chia (tuần tự ở vị trí 82 và 85) nhưng lại thấp hơn hẳn Xing-ga-po, Phi- líp-pin và Ma-lai-xia (với mức độ thông thạo cao, tuần tự đứng thứ hạng 3, 14 và 22).

Nếu xét theo xu hướng, với thể thấy rằng Việt Nam đã vươn lên từ rất thấp (xếp thứ 39/44 nước) năm 2011 dần lên trung bình trong những năm sắp đây [110].

Trong báo cáo mới đây nhất của Diễn đàn Kinh tế toàn cầu (WEF) về “Sự sẵn sàng đối với tương lai của sản xuất” (2018) [98], trong tổng số 132 nước được khảo sát, so với 6 nước ASEAN khác cùng được xem xét trong báo cáo, Việt Nam được giám định nằm trong nhóm những nước mới chớm sẵn sàng, cùng với In-đô-nê-xia, và Cam-pu-chia, trong lúc Xing-ga-po và Ma-lai-xia được nằm trong nhóm nước dẫn đầu, còn Thái Lan, Phi-líp-pin nằm trong những nước đã với những bước tiến bộ (Phụ lục 13).

Theo đó, về chất lượng nguồn nhân lực, báo cáo xếp hạng Việt Nam về tài chính con người đứng thứ 70 trong số 132 nước với 4,5/10 điểm, chỉ đứng trên Cam- pu-chia xếp thứ 86 với 3,8 điểm trong lúc Xing-ga-po đứng thứ 2 trên toàn cầu với 8 điểm. Chất lượng tập huấn nghề của Việt Nam đứng thứ 80 với 3,6/7 điểm, chỉ trước Cam-pu-chia đứng vị trí 92 với 3,3 điểm, và sau rất nhiều so với nước tiếp theo là Thái Lan xếp thứ 59 với 3,9 điểm. Đặc trưng, về khoa học và thông minh, Việt Nam đứng thứ 90 với 3,1/10 điểm, sau cả Cam-pu-chia xếp thứ 83 với 3,1 điểm.

Về chất lượng tập huấn đại học, Việt Nam xếp hạng thứ 75 cùng với Cam-pu- chia và trước In-đô-nê-xia, sau Xing-ga-po (xếp thứ 3), Ma-lai-xia (xếp hạng 23), Thái Lan (xếp thứ 28) và Phi-líp-pin (xếp thứ 47).

Về chất lượng tập huấn nghề, Việt Nam chỉ đạt 3,6/7 điểm, xếp thứ 80/132 nước/vùng lãnh thổ, đứng trên Cam-pu-chia ở thứ hạng 92 với 3,3 điểm và xếp sau 5 nước ASEAN còn lại trong giám định, quá xa so với nước đứng thứ 5 của ASEAN là Thái Lan với thứ hạng 59 và đạt 3,9 điểm.

Tương tự, rõ ràng Việt Nam chưa thể vươn lên khỏi vị trí thứ 6 hoặc 7 trong ASEAN, cả trong quá khứ và trong tương lai sắp với CMCN 4.0 đang hiện hữu.

Trường hợp ngành nghề du lịch

Để phân tích sâu hơn khả năng tham gia di chuyển lao động kỹ năng của Việt Nam trong ASEAN, trong phạm vi và theo mục tiêu của Luận án, tác giả Luận án đề xuất xem xét một ngành nghề cụ thể, đó là ngành nghề du lịch. Đây là ngành nghề Việt Nam với tiềm năng và tiếp tục với nhu cầu to trong thời kì tới của những nước thành viên ASEAN và cũng là một trong 8 nghề với MRAs.

Theo “Thống kê năng lực khó khăn Du lịch và lữ khách” của WEF năm 2017 [98], trong ngành nghề du lịch và lữ khách Việt Nam đứng thứ 67 trong số 136 quốc gia về năng lực khó khăn, trong đó chỉ số khó khăn trụ cột thứ 4 về Nguồn nhân lực và thị trường lao động, Việt Nam được giám định chung xếp hạng 37, trên nhiều nước trong khu vực như Thái Lan (40), Phi-líp-pin (50), In-đô-nê-xia (64), Lào (65) Cam-pu-chia (110).

Nếu xét một số tiêu chí cụ thể trong trụ cột Nguồn nhân lực và thị trường lao động: Tiêu chí Mức độ định hướng khách hàng, Việt Nam được giám định thấp nhất trong những nước được xếp hạng với vị trí 107; Tiêu chí Thuận lợi tìm kiếm viên chức với tay nghề, Việt Nam xếp hạng 89 sau hầu hết những nước trong khu vực trừ Cam-pu-chia

; tiêu chí quy mô, mức độ tập huấn viên chức, Việt Nam (69) cũng chỉ đứng trên Cam- pu-chia (98) và Lào (73); tiêu chí thuận lợi thuê lao động nước ngoài Việt Nam xếp hạng 75, xếp sau những nước Ma-lai-xia (24), Lào (41) và Cam-pu-chia (49); Một tiêu chí rất quyến rũ cho lao động du lịch là tiêu chí Trả lương và năng suất làm việc, Việt Nam được giám định thấp với xếp hạng 62, chỉ cao hơn Cam-pu-chia (63) và cách rất xa với Xing-ga-po (2) hay Ma-lai-xia (6) và cũng thấp hơn nhiều so với In-đô-nê-xia (29), Lào (35) và Phi-líp-pin (37).

Những con số giám định trên cho thấy, việc kỳ vọng mức lương thưởng cao hơn, thời cơ nghề nghiệp phát triển tốt hơn, năng suất lao động cao, mức độ thuận lợi trong thuê lao động nước ngoài… là những lý do với khả năng làm cho lao động du lịch Việt Nam mong muốn được sang những nước khác làm việc.

Theo Số liệu thống kê và giám định xếp hạng lao động du lịch của Hội đồng du lịch và lữ khách toàn cầu (WTTC), tới năm 2015, trong tổng số 310.582.000 lao động của toàn khối ASEAN, với khoảng 5% lao động thuộc 7 ngành nghề nghề nghiệp đã ký thỏa thuận MRA (ko kể viên chức dò la, khảo sát) tương ứng 14.940.000 lao động, trong đó, du lịch chiếm tỷ lệ cao nhất với khoảng 83% (hình 3.14).

So sánh với những nước trong khu vực. Năm 2016, Du lịch và Lữ khách Việt Nam đứng thứ 3 sau Thái Lan và Phi-líp-pin về tạo việc làm trực tiếp và đứng thứ 4 sau Phi-líp-pin, In-đô-nê-xia và Thái Lan về tổng số lao động trực tiếp và gián tiếp trong du lịch và lữ khách.

Xét cho cả giai đoạn 2017 – 2027, tốc độ tăng trưởng bình quân lao động, việc làm trong ngành nghề du lịch, lữ khách giai đoạn này của Việt Nam khá thấp, 1,3% cho lao động trực tiếp, chỉ đứng trên Lào và Xing-ga-po và 1,0% cho tổng số lao động, chỉ đứng trên Xing-ga-po .

Hộp 2: Kết quả dò la xã hội học về AEC và mong muốn của người lao động trong ngành du lịch.

Hầu hết người lao động và doanh nghiệp du lịch Việt Nam được hỏi đều biết tới sự thành lập của Cùng đồng kinh tế ASEAN – AEC, việc ký kết thỏa thuận xác nhận lẫn nhau và việc mở ra thời cơ, khả năng di chuyển lao động. Con số này đạt tới tỷ lệ 72,7% người lao động du lịch và 87,9% doanh nghiệp du lịch được hỏi.

Về việc với hay ko mong muốn di chuyển lao động tới làm việc tại những nước ASEAN khác, với nhiều ý kiến trả lời khác nhau, trong đó khoảng 33% người lao động sẽ chủ động tìm kiếm thời cơ chuyển tới làm việc tại những nước ASEAN nếu thấy với những điều kiện làm việc và sinh sống thuận lợi hơn, 33% người lao động trả lời sẽ chuyển ra làm việc ở nước ngoài nếu được những tổ chức nước ngoài mời. Tuy nhiên, cũng với tỷ lệ 31,4% người lao động ko thích chuyển ra làm việc ở nước ngoài.

Trong số những nước ASEAN mà người lao động Việt Nam mong muốn được chuyển tới làm việc, Xing-ga-po là quốc gia được lựa chọn nhiều nhất (tỷ lệ lựa chọn trên 53%), tiếp tới: Ma-lai-xia và Thái Lan là hai quốc gia cũng được nhiều lao động ưa thích tìm kiếm thời cơ việc làm (trên 12%). Hầu hết người lao động ko thích chuyển tới làm việc tại Cam-pu-chia hay My-an-ma.

Phần to lao động được hỏi cho rằng nếu di chuyển làm việc tại những nước ASEAN khác, họ chỉ mong muốn làm việc từ thời kì khoảng từ 2 tới 5 năm (50%), với 23,1% người lao động được hỏi muốn làm việc trong khoảng thời gian dài và rất ít người với ý định làm việc, ở lại định cư tại nước ngoài (5,4%).

Đối với việc di chuyển lao động du lịch Việt Nam ra những nước ASEAN, theo nhận định của doanh nghiệp, những nhóm nghề chủ yếu sẽ với sự di chuyển nhiều là Phục vụ nhà hàng (2.56 điểm), tiếp tới là Lễ tân (3.15 điểm) và Chế biến món ăn (3.15 điểm). Lao động trong những nhóm nghề Đại lý lữ khách (4.79 điểm) và Quản lý du lịch (3.79 điểm) ít với khả năng di chuyển hơn.

Tất cả các nước được doanh nghiệp giám định là điểm tới mà lao động du lịch Việt Nam mong muốn di chuyển tới làm việc nhiều nhất là Xing-ga-po , Thái Lan và Ma-lai-xia. Còn tất cả các nước như Bru–nây, Myanmar hay Lào, Cam-pu-chia là những điểm tới mà lao động du lịch Việt Nam ít với nhu cầu, mong muốn chuyển tới làm việc hơn. Những lựa chọn này khá tương đồng với ý kiến trả lời của lao động du lịch.

Nguồn: Kết quả dò la xã hội học của đề tài “Quản lý Nhà nước về di chuyển lao động du lịch trong hội nhập ASEAN” [20]

Nguồn cung lao động của Việt Nam đang dồi dào trong thời khắc của cơ cấu dân số vàng. Dòng di chuyển lao động của Việt Nam sang những nước nội khối ASEAN trong thời kì qua chủ yếu là lao động ko với kỹ năng, trong những ngành nghề ko yêu cầu trình độ kỹ thuật cao, nhiều nhất là thợ thủ công, tiếp theo là những ngành nhà sản xuất, lao động giản đơn và những ngành công nghiệp chế biến. Quy mô lao động kỹ năng của Việt Nam trong 8 nghề được di chuyển tự do trong nội khối ASEAN rất nhỏ. Năng lực khó khăn của lao động Việt Nam chưa thể vươn lên khỏi vị trí thứ 6 hoặc thứ 7 trong ASEAN, cả trong quá khứ và trong tương lai sắp với kỷ nguyên Công nghiệp 4.0 đang hiện hữu. Mong muốn đi làm việc ở nước ngoài của lao động kỹ năng đang với trong bối cảnh hội nhập chung, track những hiểu biêt, cách thức và bản thân năng lực của lao động với khả năng khó khăn yếu đang là những rào cản làm bản thân người lao động chưa thể tìm được cách đi hiệu quả.

Rate this post

Bình luận