Cấu trúc vốn mục tiêu trong công ty cổ phần

Để nghiên cứu CTV mục tiêu thì trước hết cần tiếp cận khái niệm CTV tối ưu, bởi lẽ hai thuật ngữ này với mối liên hệ nhất định. CTV tối ưu lần trước tiên được nói trong Lý thuyết truyền thống về CTV tối ưu (Optiomal Capital Construction). Theo lý thuyết này, luôn tồn tại một CTV tối ưu cho phép tối đa hóa trị giá doanh nghiệp bằng cách kết hợp giữa nợ và VCSH theo một tỷ lệ nhất định giúp tối thiểu hóa giá bán sử dụng vốn bình quân (Durand, 1952; Ross và ctg, 2003; Paramasvan và Subramania, 2008). Mặc dù, ý kiến này được phát biểu dựa trên một số giả thiết ko tồn tại trong thực thế nhưng vẫn nhận được sự ủng hộ của những tác giả thử Solomon và Weston.
Ý kiến về CTV tối ưu cũng được nói trong Lý thuyết TOT tĩnh. Theo Kraus và Litzenberger (1973), Jensen và Meckling (1976), Jensen (1986), trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp thuận tiện và nhanh chóng đạt được CTV tối ưu mà tại đó, diễn ra một sự đánh đổi giữa lợi ích về thuế của nợ vay và giá bán kiệt quệ tài chính (lợi ích cận biên thăng bằng với giá bán cận biên). Ngoài ra, theo ý kiến này, trong suốt thời kì hoạt động, doanh nghiệp chỉ với một CTV tối ưu duy nhất.

Tuy nhiên, trong thực tế ko phải lúc nào doanh nghiệp cũng với khả năng xác định được tất cả những khoản giá bán, đặc trưng giá bán kiệt quệ tài chính. Chỉ với những loại giá bán kiệt quệ tài thẳng thắn tiếp liên quan tới quá trình vỡ nợ như giá bán trạng sư, giá bán pháp lý mới với thể quan sát và xác định được. Còn những loại giá bán kiệt quệ tài chính gián tiếp khác như giá bán do mất thời cơ đầu tư (mất khách hàng, mất nhà cung ứng, mất viên chức giỏi, mất thời kì…) rất khó quan sát và xác định cụ thể.

Mặt khác, CTV chịu sự tác động bởi những biến động của yếu tố vi mô cũng như vĩ mô, lúc những biến này thay đổi với thể tác động tới hoạt động, sản xuất, kinh doanh và giá cổ phiếu của doanh nghiệp. Do đó, việc xác định CTV tối ưu cho một giai đoạn là thách thức to đối với doanh nghiệp (điều này được giảng giải chi tiết Mục 2.1.1.4). Vì vậy, những doanh nghiệp thường xác định một con số hoặc khoảng CTV mục tiêu và xem như đây là CTV tối ưu mà doanh nghiệp cần phải thiết lập nhằm gia tăng trị giá doanh nghiệp (Brigham và Houston, 2009). Vì vậy, theo Brigham và Houston (2009), CTV mục tiêu là việc kết hợp giữa nợ vay, vốn cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông mà doanh nghiệp với kế hoạch để huy động lúc cần thiết nhằm tăng hiệu quả hoạt động và tăng trị giá doanh nghiệp.

Xác định CTV tối ưu là vấn đề ko thuận tiện, nhất là trong bối cảnh bất ổn lúc nền kinh tế đang phục hồi chưa vững bền, môi trường kinh tế vĩ mô còn biến động nhiều. Do đó, trong phạm vi của luận án, tác giả tập trung xác định CTV mục tiêu cho những doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, luận án san sớt ý kiến về CTV mục tiêu của Brigham và Houston (2009). Theo tác giả này, CTV mục tiêu là việc kết hợp giữa nợ, vốn cổ phần ưu đãi, và vốn cổ phần thường tối thiểu hóa giá bán sử dụng vốn nhằm tăng hiệu quả hoạt động và tăng trị giá doanh nghiệp.

Tóm lại, qua những khái niệm nêu trên cho thấy với mối liên hệ giữa những khái niệm về CTV, CTV tối ưu và CTV mục tiêu. Tuy nhiên, CTV là sự kết hợp giữa VCSH và nợ phải trả (bao gồm NNH và NDH) mà một doanh nghiệp sử dụng để tài trợ cho những hoạt động của mình, bất kỳ doanh nghiệp nào với sử dụng nợ đều với khả năng tính toán được tiêu chí này. Nhưng hầu hết những doanh nghiệp đều với hai mục tiêu chung – ngắn hạn là tối đa hóa hiệu quả hoạt động và dài hạn tối đa hóa trị giá đơn vị (Matari và cùng sự, 2014). Chính điều này làm cho những nhà quản trị cần phải thực hiện nhiều giải pháp để đạt được hai mục tiêu trên, trong đó việc lựa chọn CTV tối ưu nhằm tối thiểu hóa giá bán vốn, và tối đa hóa trị giá doanh nghiệp là giải pháp quan yếu và cần thiết. Tuy nhiên, CTV cũng như CTV tối ưu ngoài sự tác động của những yếu tố vi mô còn chịu sự tác động của những yếu tố vĩ mô, những yếu tố này biến động liên tục.

Do đó, việc xác định CTV tối ưu ko phải là điều thuận tiện. Vì vậy, doanh nghiệp thường đặt ra cho mình ngưỡng hoặc khoảng CTV mục tiêu mà tại đó làm tối thiểu hóa giá bán sử dụng vốn và tăng hiệu quả hoạt động, tăng trị giá doanh nghiệp, gọi là CTV mục tiêu. Tuy nhiên, CTV mục tiêu này cũng sẽ thay đổi theo thời kì, mỗi CTV mục tiêu chỉ thể hiện thích hợp với giai đoạn này nhưng ko thích hợp với giai đoạn khác. Mặt khác, sự biến động trong môi trường kinh doanh với thể làm cho CTV thực tế của doanh nghiệp rời xa CTV mục tiêu đã xác định, điều này đòi hỏi những doanh nghiệp phải điều chỉnh lại quy mô, cơ cấu tài chính, cơ cấu tài sản, thị trường tiêu thụ, tốc độ tăng trưởng, … nhằm đạt được CTV theo mục tiêu đã xác định. Do đó, phạm vi nghiên cứu của luận án ngoài việc xác định CTV mục tiêu của những doanh nghiệp Việt Nam thì việc xác định những yếu tố vi mô và vĩ mô tác động tới quá trình điều chỉnh cũng như việc lựa chọn CTV để đạt được CTV mục tiêu của doanh nghiệp cũng là điều cần thiết.

Rate this post

Bình luận