Hiện nay, những nghiên cứu trên toàn cầu về “CSR towards staff” hay “TNXH đối với NLĐ” tại Việt Nam tập trung chủ yếu:
Những nghiên cứu về “Nội dung trách nhiệm xã hội đối với người lao động”
Nội dung TNXH đối với NLĐ thực chất là trả lời thắc mắc DN thực hiện trách nhiệm gì đối với NLĐ? Nghiên cứu những dự án cho thấy nổi lên một số tiếp cận phổ biến:
Nội dung TNXH đối với NLĐ theo cấp độ thực hiện
Carroll (1991) từ lý thuyết cấp độ TNXH đã đưa ra ma trận TNXH đối với NLĐ từ trách nhiệm kinh tế tới trách nhiệm từ thiện. Trong đó thực hiện TNXH đối với NLĐ là thực hiện tốt những quy định của PLLĐ hiện hành, đây chính là một phần bản “khế ước” giữa DN và NLĐ. Bốn khía cạnh này được nhiều nghiên cứu về TNXH đối với NLĐ ở Việt Nam: Nguyễn Thị Minh Nhàn (2015), Lê Thị Hướng (2017), Bùi Thị Thu Hương (2018)… miêu tả thành sự: cần thiết, buộc phải, kỳ vọng và sự mong đợi. Nội dung TNXH đối với NLĐ theo cấp độ thực hiện mang tính toàn diện và khả thi cao được nhiều DN sử dụng làm khung tiêu chuẩn. Tuy nhiên, giữa những tầng trách nhiệm trong kim tự tháp lại mang sự chồng lấn lên nhau. Việc tuân thủ những quy định của pháp luật cứng cáp dẫn tới những tầm giá kinh tế cho DN. Nhìn vào kim tự tháp mang thể hiểu rằng để phấn đấu thực hiện nghĩa vụ ở cấp cao hơn thì sẽ đạt được cả nghĩa vụ thấp hơn. Thực tế, lúc triển khai những loại trách nhiệm này vẫn mang sự lồng ghép, tồn tại tại cùng một vấn đề ví như vấn đề về tiền lương của NLĐ. Đây chỉ là chỉ một vấn đề mà DN phải thực hiện nhưng TNXH đối với NLĐ lại là trách nhiệm kinh tế và đồng thời là trách nhiệm pháp lý.
Nội dung TNXH đối với NLĐ theo tiêu chuẩn ISO 26000:
ISO 26000: 2010 là một bộ tiêu chuẩn của Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa nhằm hướng dẫn về TNXH với 7 chủ đề cốt lõi: Quản trị tổ chức, bảo vệ con người, người lao động, hoạt động sáng tỏ, hướng tới người tiêu sử dụng, phát triển cùng đồng. Lựa chọn nội dung TNXH đối với NLĐ tại tập đoàn FPT theo tiêu chuẩn này Nguyễn Ngọc Thắng (2015) đã tập trung chủ yếu tới: Việc làm và phát triển quan hệ lao động; Chế độ đãi ngộ và bảo trợ xã hội; Hội thoại xã hội; Sức khoẻ và an toàn nơi làm việc. Đây là TNXH đảm bảo quyền và lợi ích của NLĐ. Cũng như vậy, Katarzyna Turoń, (2016) tập trung vào ISO 26000 và thêm nội dung thân thiện với NLĐ, ủng hộ viên chức, cho NLĐ tham gia vào thực hiện TNXH.
Tác giả Phạm Việt Thắng (2018) đã nghiên cứu nội TNXH đối với NLĐ theo tiêu chuẩn ISO26000 bao gồm 5 nội dung: (i) Việc làm và phát triển quan hệ lao động với những biến quan sát là DN: luôn tuân thủ Luật lao động và quy định của Nhà nước đối với NLĐ, đảm bảo thời cơ thăng tiến công bằng đồng đẳng cho NLĐ…; (ii) Chế độ đãi ngộ và bảo trợ xã hội với những biến quan sát: mức lương, thưởng tương xứng với năng lực và mức độ cống hiến, luôn tuân thủ những quyền cơ bản của NLĐ…;
Hội thoại xã hội gồm những biến quan sát, DN: luôn quảng cáo trung thực về sản phẩm, lúc mang thắc mắc/ko hài lòng, viên chức thuận tiện phản hồi với các ngành lãnh đạo…; (iv) Sức khỏe và an toàn tại nơi làm việc với những biến quan sát: môi trường làm việc tại DN sạch sẽ, đảm bảo an toàn sức khỏe, NLĐ trong DN được rà soát sức khỏe định kỳ…; (v) Huấn luyện và phát triển năng lực viên chức với những quan sát: tổ chức những chương trình tập huấn để phát triển kỹ năng làm việc cho NLĐ, NLĐ mang thời cơ thăng tiến lúc nỗ lực làm việc, … Đặc trưng, mục tiêu nghiên cứu của tác giả là xây dựng và kiểm định mối quan hệ giữa 5 nội dung về TNXH với mức độ mức độ hài lòng, tin tưởng, cam kết của NLĐ bằng 13 giả thuyết tại 21 DN dệt could Việt Nam bình phân tích EFA, CFA và SEM và mang 11 giả thuyết được chấp nhận. Tuy nhiên bức tranh thực trạng thực hiện TNXH đối với NLĐ của những DN Dệt could về 5 nội dung TNXH đối với NLĐ đã đề xuất vẫn chưa được phân tích, làm rõ.
(iii) Nội dung TNXH đảm bảo quyền và lợi ích của NLĐ
Thực hiện TNXH đối với NLĐ của tác giả Lorraine Sweeney (2009) gồm: (i) Thực hiện mức lương bằng hoặc cao hơn mức lương tối thiểu của ngành; (ii) Khuyến khích NLĐ phát triển những kỹ năng cần thiết và gắn kết trong tương lai; (iii) Đảm bảo sức khỏe và an toàn cho NLĐ; (iv) Đảm bảo NLĐ thăng bằng giữa công việc và cuộc sống; Tác giả Nguyễn Thị Minh Nhàn (2015), Lê Thị Hướng (2017) cho rằng ngoài những nội dung nêu trên thì những DN cần tập trung tới ký kết HĐLĐ, tham gia bảo hiểm cho NLĐ theo đúng quy định hay tác giả Nguyễn Thị Minh Nhàn (2015), Bùi Thị Thu Hương (2018) chỉ ra cần: đảm bảo thời kì lao động, trang bị bảo hộ lao động, khám sức khỏe định kỳ, đóng bảo hiểm, tiền lương và phúc lợi, tập huấn phát triển, NLĐ được tham gia tổ chức công đoàn, đoàn thể… Qua đó hoàn thiện nội dung TNXH đảm bảo quyền và lợi ích đối với NLĐ cũng như thực hiện tốt hệ thống quản lý chất lượng đạt yêu cầu của khách hàng.
Nhắc tới một khía cạnh trong TNXH đối với NLĐ chính là tiền lương của tác giả Lê Thanh Hà (2006) như: tiền lương tối thiểu, những mức lương vừa thể hiện vị trí, công việc vừa thể hiện sự san sẻ lợi ích giữa tổ chức, DN và NLĐ vừa thể hiện sự phát triển nghề nghiệp của mỗi tư nhân NLĐ trong thực hiện TNXH của DN. Đây là một trong những nội dung quan yếu thể hiện DN đã đảm bảo quyền và lợi ích của NLĐ trong PLLĐ của Việt Nam mà những DN phải tuân thủ. Ngoài ra Anber Abrahee shlash Mohammad et al (2014) nhận định kế bên tiền lương thì những chỉ số đảm bảo quyền của NLĐ: nơi làm việc, tự do hiệp hội và thương lượng tập thể là những yếu tố mà DN nên thực hiện tốt để làm hài lòng NLĐ.
Nghiên cứu TNXH đối với NLĐ tại hai Đơn vị Đường ở Kenya được S.W.Masinde (2015) đã thăm dò với số phiếu là 245 và phỏng vấn 15 lãnh đạo những phòng ban ở 2 DN này và xử lý dữ liệu thu được bằng phần mềm SPSS. Tác giả đã nhắc tới nội dung thực hiện TNXH về quyền và lợi ích của NLĐ là điều kiện làm việc tốt, giờ làm việc, tạo ra thời cơ thăng tiến cho NLĐ. Trong lúc TNXH đối với NLĐ của DN được nghiên cứu thông qua chỉ số về quyền và lợi ích cơ bản của NLĐ trong PLLĐ Việt Nam như: HĐLĐ, thu nhập và thời kì làm việc, những khoản phúc lợi xã hội, trang bị bảo hộ lao động, môi trường làm việc, quan hệ lao động của Nguyễn Thị Minh Châu, (2013). Kết quả nghiên cứu tại những cơ sở vật chất sản xuất kinh doanh cá thể phi nông nghiệp ở TPHCM cho thấy, những DN chưa tuân thủ PLLĐ, điểm nổi cộm như: ko mang HĐLĐ, ko mang BHXH, BHYT, chưa đảm bảo ATVSLĐ. TNXH của những cơ sở vật chất sản xuất kinh doanh cá thể đối với NLĐ chưa đảm bảo về quyền trong PLLĐ huống chi là lợi ích cho NLĐ.
Trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, TNXH đối với NLĐ của những DN could trong nghiên cứu của: Diana Hierbaek Nymann (2005) tại những DN could trong đảm bảo sức khỏe và an toàn lao động từ đó đưa ra những chương trình hành động cụ thể cho DN nhằm phát triển chương trình tập huấn về sức khỏe và an toàn lao động cho những DN could thực hiện TNXH thông qua hệ thống OHS; Phân tích thực trạng và lợi ích của việc thực hiện TNXH của những DN could trong nghiên cứu của Phạm Công Đoàn (2008) coi trong TNXH đảm bảo quyền và lợi ích của NLĐ để đạt được những CoC về lao động trong hội nhập. Theo tác giả thực hiện TNXH là việc mới, khó và trong điều kiện hạn chế về nguồn lực nên đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, tranh thủ tư vấn, học hỏi thông qua nghiên cứu khảo sát trực tiếp của những DN thành công trong ngành; Hoặc Nguyễn Phương Mai (2013) nghiên cứu tại Đơn vị Cổ phần could Đáp Cầu tập trung đảm bảo quyền và lợi ích thông qua: Khuyến khích người lao động viên phát triển những kỹ năng và thời cơ nghề nghiệp, mang chính sách hạn chế sự phân biệt đối xử với và giữa những người lào động tại nơi làm việc, tạo điều kiện cho viên chức tham gia bàn thảo những vấn đề quan yếu của DN, mang chính sách bảo vệ sức khỏe, sự an toàn và quyền và lợi ích khác của NLĐ tại nơi làm việc, tạo điều kiện cho người lao động mang thời kì làm việc linh hoạt…;
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và Tổ chức tín dụng quốc tế (IFC) từ năm 2011 – 2017 trong chương trình làm việc tốt hơn đã Con số tuân thủ những quy định lao động về quyền và lợi ích tại những DN could. Nghiên cứu năm 2011 tại 64 DN could cho thấy tất cả những DN đều ko tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế về hoạt động của Công đoàn; 60 DN ko tuân thủ về can thiệp của ban quản lý vào công đoàn, 37 DN vi phạm quyền thương lượng tập thể, 6 DN ko tuân phủ thứ tự khắc phục đình công; Được xây dựng dựa trên những kết luận trong báo cáo thẩm định của 257 DN could tại Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 10/2015 tới tháng 12/2016. Nghiên cứu năm 2017 đã khắc họa bức tranh về tình trạng ko tuân thủ những quy định trong PLLĐ hiện hành về trách nhiệm đảm bảo quyền và lợi ích tập trung vào: (i) Hợp đồng và nhân sự; (ii) Tiền lương; (iii) An toàn vệ sinh lao động; (iv) Giờ làm việc, (v) Tự do hiệp hội và thương lượng tập thể. Những báo cáo này giúp DN could thực hiện TNXH ngày càng hiệu quả hơn.
MOLISA (2015), thanh tra lao động ở 152 DN could tại về tuân thủ PLLĐ hiện hành đã phát hiện hơn 1.700 vi phạm. Hầu hết DN huy động lao động làm quá giờ quy định. Nhiều DN còn ko thực hiện chế độ nghỉ hàng tuần, nghỉ lễ, nghỉ hàng năm, nghỉ việc riêng mang lương cho NLĐ; 22 DN vi phạm về thời kì làm việc cho lao động nữ nuôi con dưới 12 tháng tuổi, lao động nữ làm mướn việc nặng nhọc; vấn đề tiền lương mang 47 DN chưa làm định mức lao động, hệ thống thang lương, bảng lương; 36 DN chưa trả lương ngày nghỉ hàng năm của lao động. Chiến dịch thanh tra này mang ý nghĩa rất to đối với những DN could trong việc đảm bảo TNXH đảm bảo quyền và lợi ích đối với NLĐ của những DN could Việt Nam và phát triển vững bền.
Tóm lại, từ kết quả nghiên cứu về “TNXH đối với NLĐ” cho thấy TNXH
đảm bảo quyền và lợi ích đối với NLĐ là sự kết hợp, phát triển, làm rõ từ tiếp cận các đối tác liên quan, trong đó bên liên quan nội tại quan trong nhất chính là NLĐ và tiếp cận kim tự tháp cấp độ trách nhiệm. Trong đó hai cấp độ trước tiên là thực hiện những trách nhiệm buộc phải – TNXH đảm bảo quyền, và những trách nhiệm tiếp theo là tự nguyện – TNXH đảm bảo lợi ích. Thực hiện nội dung TNXH đảm bảo quyền và lợi ích sẽ đáp ứng yêu cầu của khách hàng quốc tế đặt ra cũng như đảm bảo mức độ tương thích trong những quy định về quyền và lợi ích của NLĐ so với PLLĐ Việt Nam và những CoC như SA8000, ISO 26000… trên toàn cầu về TNXH. Từ những nghiên cứu nêu trên thấy được TNXH đảm bảo quyền và lợi ích bao trùm 5 nội dung cơ bản: HĐLĐ, giờ làm việc, ATVSLĐ và sức khỏe nghề nghiệp, lương và phúc lợi, tự do hiệp hội và thương lượng tập thể.
Những nghiên cứu về “Quá trình thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động”
Trong nghiên cứu tổng hợp của tạp chí Academy of Administration Journal với sắp 100 bài viết bàn về TNXH, TNXH đối với NLĐ từ những năm 60 cho tới 2015 được phân thành: lịch sử hình thành (antecedent) từ năm 1960 – 1970, kết quả (final result) từ 1980 – 1990, quá trình thực hiện (implementation course of) từ 2000 tới nay. Những nghiên cứu về “The CSR implementation course of” đều mang đặc điểm, đối tượng riêng, nhưng tất cả đều thống nhất rằng, quá trình thực hiện TNXH là tổ chức những hoạt động để thực hiện mục tiêu, những loại TNXH của DN đề ra, cụ thể:
Những hoạt động trong quá trình thực hiện TNXH được Panapanaan và những cùng sự (2003) phân tích tại 12 DN mang ngành kinh doanh khác nhau ở Thụy Điển như: tổ chức và cơ cấu thực hiện; xây dựng kế hoạch; triển khai kế hoạch; rà soát và thẩm định; truyền thông và báo cáo. Cùng năm đó, Werre M. (2003) đề xuất những giai đoạn của quá trình thực hiện TNXH của Đơn vị Chiquita cụ thể: tăng nhận thức quản lý cao cấp; xây dựng một tầm nhìn TNXH và những trị giá của cốt lõi doanh nghiệp; thay đổi hành vi tổ chức; kiểm soát sự thay đổi. Tương tự vậy, Nguyễn Ngọc Thắng (2015) nhận định ngoài kiểm soát nhằm đảm bảo những gì đang được thực hiện đúng với kế hoạch thì hoạch định TNXH nhằm đạt được mục tiêu DN muốn hướng tới; Tổ chức sẽ tạo ra sự sắp xếp, sử dụng nguồn lực nhằm giúp DN đạt được những mục tiêu.
Để quá trình thực hiện TNXH đạt hiệu quả cao theo Maignan I., Ferrell O. C và Ferrell L, (2005) phát triển quá trình này thành 8 bước: Bước 1 – Khám phá những trị giá và chuẩn mực của tổ chức; Bước 2-Xác định và các đối tác liên quan thực sự quan yếu của DN; Bước 3-Xác định những vấn đề chính mà các đối tác liên quan quan tâm tới; Bước 4-Tìm hiểu ý nghĩa lúc thực hiện TNXH thích hợp lợi ích của tổ chức; Bước 5-Kiểm soát vấn đề thực hiện trong hiện tại; Bước 6-Đưa ra quyết định ưu tiên và thực hiện những vấn đề thay đổi trong TNXH; Bước 7-Xúc tiến thực hiện TNXH bằng cách tạo ra nhận thức và nhận được sự tham gia của các đối tác liên quan; Bước 8-Sở hữu được thông tin phản hồi thực hiện từ các đối tác liên quan. Đây là quá trình cụ thể đem lại hiệu quả trong thực hiện TNXH của DN.
Nghiên cứu quá trình thực hiện TNXH của Jan Jonker và Marco de Witte (2006) với những nội dung: (i) Xây dựng kế hoạch hoạt động; (ii) Triển khai thực hiện hoạt động; (iii) Tìm hiểu thực hiện. Tán đồng với ý kiến này, Nguyễn Thị Minh Nhàn (2015) đã đề xuất quá trình thực hiện TNXH của DN gồm 3 nội dung với hoạch định thực hiện, triển khai thực hiện, kiểm soát thực hiện TNXH. Đây là một thứ tự thực hiện TNXH bài bản và khoa học giúp những DN những DN thực hiện TNXH mang chất lượng. Cùng với đó, nghiên cứu của tác giả (2014) đã kiểm định giả thuyết tổ chức triển khai thực hiện TNXH (xây dựng kế hoạch thực hiện TNXH, tổ chức thực hiện TNXH, kiểm soát thực hiện TNXH) mang tác động trực tiếp tới hiệu suất thực hiện TNXH đối với NLĐ tại 85 DN Chế biến, Xuất khẩu thủy sản. Giả thuyết nghiên cứu này đã mang ý nghĩa về mặt thống kê. Hay Bùi Thị Thu Hương (2018) từ tiếp cận trung mô tại tỉnh Thái Nguyên với quá trình thực hiện cần tập trung vào nội dung triển khai với NLĐ. Với quy mô mẫu là 231 nhà quản lý và 394 NLĐ trong những DNNVV tỉnh Thái Nguyên đã cho thấy: xây dựng kế hoạch chưa dựa vào nhu cầu cụ thể của DN. Nhiều DN cũng ko mang phòng ban chuyên trách thực hiện TNXH đối với NLĐ. Hoạt động rà soát vẫn còn làm phép.
Phạm Công Đoàn (2008) cho rằng thực hiện TNXH đối với DN Việt Nam là việc mới, khó với điều kiện hạn chế về nguồn lực nên đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng, thực hiện bài bản. Thực hiện TNXH cần dựa trên cơ sở vật chất hoạt động, ngành nghề kinh doanh, những cam kết, trị giá cốt lõi và văn hoá kinh doanh của từng DN. Hohnen,
(2007) đã mô tả phạm vi thực hiện TNXH cần được thiết kế thành bốn phần: xây dựng kế hoạch, thực hiện, rà soát và cải thiện. Tác giả giảng giải rằng NLĐ đóng một vai trò trung tâm trong việc thực hiện. Vì thế, trong quá trình thực hiện cần tạo động lực, hay thưởng cho những sáng kiến để cải thiện quá trình thực hiện TNXH. Tương tự vậy, Niklas Hermansson và Ola Olofsson (2008) đã tìm hiểu và xác định những bước khác nhau trong quá trình thực hiện TNXH hoàn chỉnh và tiến bộ hơn trong nghiên cứu tại: Physique Store, Sweden, Löfbergs Lila and Stora Enso.
Tóm lại, từ phân tích trên ta thấy thực hiện TNXH, TNXH đối với NLĐ chính là tiến trình tổ chức những hoạt động để đạt được mục tiêu đề ra. Theo đó, DN cần kế hoạch hóa thực hiện TNXH đối với NLĐ một cách khả thi, toàn diện; triển khai kịp thời, linh hoạt những chương trình hành động thực hiện TNXH với NLĐ và thẩm định thực hiện TNXH với NLĐ một cách chủ động.