Giai đoạn 2011 – 2015, tổng số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đạt trên 470 nghìn người. Tuy nhiên sở hữu tới 50% trong số đó là lao động phổ thông sở hữu tay nghề thấp. Số lao động còn lại được thống kê là lao động sở hữu tay nghề, nhưng thực chất cũng chủ yếu chỉ là lao động được huấn luyện sơ cấp nghề (3 tháng) trước lúc được đưa ra nước ngoài làm việc [16]. Theo ước tính của ILO, tỷ lệ lao động di chuyển nội khối của Việt Nam không liên quan được yêu cầu so với số lao động tay nghề cao chiếm hơn 30%. Với trình độ hạn chế của người lao động Việt Nam, mức độ tăng trưởng lao động đi trong giai đoạn 2010 – 2015 vẫn chỉ tập trung vào ở mức tay nghề trung bình (tăng 27,9%) và tay nghề thấp (22,6%).
Xét về cơ cấu lao động đi, sở hữu thể thấy rằng trừ một số nghề đòi hỏi kỹ năng cao hơn trong một số thị trường lúc người lao động di chuyển như làm khán hộ công tại bệnh viện hoặc tại gia đình hay tiếp viên hàng ko, hầu hết người lao động Việt Nam đi làm những nghề sở hữu kỹ năng dưới mức trung bình như đứng máy trong một số nhà máy chế tạo, xây dựng, nhà sản xuất khách sạn (phục vụ buồng)…hay những nghề sở hữu trình độ giản đơn, lao động chân tay như thuyền viên, nông nghiệp, bốc vác… Cá biệt sở hữu một số lao động đi làm quản lý hay cán bộ, chuyên gia tại một số nước sở hữu vốn đầu tư do Việt Nam đầu tư hay Việt Nam trúng thầu nhà sản xuất (theo hình thức di chuyển nội bộ doanh nghiệp theo đầu tư hoặc hợp đồng nhà sản xuất – di chuyển thể nhân MNP) (Phụ lục 4).
Tại một số nước thành viên sở hữu nhiều lao động Việt Nam đi làm việc
Tại Thái Lan: ngành nghề được làm nhiều nhất là nhà sản xuất bán hàng (trong đó sở hữu phục vụ bàn ở nhà hàng, bán hàng siêu thị và bán lẻ) chiếm tới 49,43% tổng số lao động Việt Nam được khảo sát làm việc tại Thái Lan. Tiếp tới là giúp việc gia đình chiếm 16,33%. Những công việc khác như đầu bếp, thợ bảo dưỡng xe, người lao động might mặc hoặc người lao động kỹ thuật sở hữu tỷ lệ sắp bằng nhau khoảng 8% tổng số lao động.
Tại Ma-lai-xia, trong tổng số 21.189 lao động hiện đăng ký làm việc ở Ma- lai-xia (Phụ lục 6) sở hữu 15.526 người lao động làm việc trong ngành sản xuất chế tạo (chiếm 73,27%), ngành xây dựng là 3.363 người (chiếm 15,87%), số còn lại làm trong ngành trồng trọt, nhà sản xuất, nông nghiệp và giúp việc gia đình. Tuy nhiên, kể cả những lao động làm trong những ngành đòi hỏi kỹ năng cao hơn như sản xuất chế tạo và xây dựng, nhà sản xuất thì gần như cũng là những lao động sở hữu tay nghề thấp, chỉ sở hữu một số ít là sở hữu kỹ năng trung bình. Ví dụ, trong tổng số 3.363 lao động trong ngành xây dựng, chỉ sở hữu khoảng 5% là lao động sở hữu tay nghề (phỏng vấn đại diện quản lý lao động của Việt Nam tại Ma-lai-xia).
Sở hữu thể thấy cơ cấu ngành nghề trong những dòng di chuyển lao động của Việt Nam trong nội khối ASEAN khá giản đơn. Cùng với sự phát triển và dịch chuyển của nền kinh tế những nước tiếp nhận lao động trong ASEAN như Ma-lai-xia, Xing-ga-po, Thái Lan, nhu cầu lao động trong những ngành nghề này sẽ giảm đi, thay thế bằng những ngành nghề đòi hỏi tay nghề cao thì lao động Việt Nam sẽ khó sở hữu thể di chuyển nếu ko kể tới việc tăng kỹ năng của lao động.
Tính cho tới tháng 5/2018, sở hữu 5.448 chuyên gia trong ASEAN đã đăng bạ, trong đó kỹ sư đo đạc sở hữu 3.155 người, kiến trúc sư 20 người và kế toán là 1.808 người. Việt Nam đã sở hữu 204 kỹ sư (chiếm 6,4%) và 20 kiến trúc sư (chiếm 4,12%) trong tổng số chuyên gia đăng ký tương ứng theo từng ngành nghề.
Hiện mới chỉ sở hữu 13 kỹ sư giỏi ASEAN đã được chứng thực đăng ký (RFPA) – tức là xác nhận music phương và di chuyển theo MRAs (ko sở hữu kỹ sư nào của Việt Nam) (Phụ lục 4).
Từ những phân tích trên, sở hữu thể thấy rằng những tác động về di chuyển lao động nói chung và lao động sở hữu kỹ năng nói riêng của ASEAN đối với Việt Nam sau lúc chính thức thành lập vào cuối năm 2015 chưa sở hữu tín hiệu tích cực. Thậm chí, số lao động Việt Nam ASEAN còn giảm nhanh về số lượng lao động cũng như cả thị trường của những nước tiếp nhận. Điều này sở hữu thể lý giải ở một số nguyên nhân sau: