Về trình độ CMKT, năm 2016 cả nước sở hữu 11,39 triệu lao động qua tập huấn sở hữu bằng/chứng chỉ (gọi tắt là lao động sở hữu CMKT, bao gồm những trình độ sơ cấp nghề, trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học), chiếm 20,92% tổng LLLĐ. Trong đó sở hữu 5,02 triệu người sở hữu trình độ đại học trở lên (chiếm 44,1%), hơn 1,74 triệu người sở hữu trình độ cao đẳng (chiếm 15,26%), 2,89 triệu người sở hữu trình độ trung cấp (chiếm 25,39%), 1,74 triệu người sở hữu trình độ sơ cấp nghề (chiếm 15,25%). Tỷ lệ tương quan giữa trình độ đại học trở lên với những trình độ cao đẳng, trung cấp và sơ cấp nghề tương ứng là 1-0,35-0,58-0,35; cho thấy sự bất hợp lý trong cơ cấu lao động sở hữu CMKT theo các ngành trình độ, phản ánh tình trạng thiếu kỹ sư thực hiện và người lao động kỹ thuật bậc trung, bậc cao trong nền kinh tế.
Trong hơn 10 năm qua (2007-2016), LLLĐ sở hữu CMKT vẫn tăng chậm, bình quân tăng thêm 356 nghìn người/năm (3,88%/năm). Đặc thù, nhóm lao động sở hữu trình độ sơ cấp nghề và trung cấp lại giảm (tương ứng với -0,42%/năm và -1,14%/năm) trong cùng giai đoạn, trong lúc vẫn còn hàng chục triệu lao động chưa qua tập huấn. Đáng lưu ý, số lượng lao động sở hữu trình độ cao đẳng và đại học trở lên tăng khá nhanh (tương ứng 7,88%/năm và 9,81%/năm trong giai đoạn 2007-2016) do sự mở rộng nhanh chóng của hệ thống giáo dục đại học trong những năm qua, track vẫn còn khá phổ biến tình trạng lao động sở hữu trình độ cao đẳng, đại học trở lên bị thất nghiệp hay chấp nhận làm những công việc giản đơn, trái ngành nghề do không phù hợp yêu cầu của thị trường lao động.
Đặc thù, trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế và chuyển giao khoa học mới, lao động Việt Nam còn thiếu những kỹ năng kỹ thuật và những kỹ năng làm việc cốt lõi.