KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CẢNG BIỂN

Khái niệm cảng biển ra đời khá sớm cùng với sự hình thành và phát triển hoạt động vận tải đường biển. Theo khái niệm truyền thống: cảng biển là đầu mối liên lạc, nơi thực hiện những thao tác xếp túa hàng hóa từ phương thức vận tải biển sang những phương thức vận tải khác và trái lại. Nội dung hoạt động cơ bản ban sơ của cảng là xếp túa hàng hóa, tương trợ cho công việc vận tải, xuất nhập khẩu, vì vậy hậu phương của cảng rất hạn chế.
Cùng với sự phát triển của vận tải biển và phân công lao động ngày càng sâu sắc, việc hợp tác lao động ngày càng chặt chẽ, khái niệm về cảng biển ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Theo tự điển Bách khoa năm 1995, “cảng biển là khu vực đất và nước ở biển, sở hữu những dự án xây dựng và trang thiết bị phục vụ cho tàu thuyền cập bến, bốc túa hàng hoá, hành khách lên xuống, sửa chữa phương tiện vận tải biển, bảo quản hàng hoá và thực hiện những công việc khác phục vụ quá trình vận tải đường biển. Cảng sở hữu cầu cảng, đường vận chuyển, sở hữu thể là đường sắt, đường bộ, kho hàng, xưởng sửa chữa”. Theo Điều 59, Chương 5-Bộ Luật Hàng hải Việt Nam quy định: “Cảng biển là khu vực bao gồm vùng đất cảng và vùng nước cảng, được xây dựng kết cấu hạ tầng và lắp đặt trang thiết bị cho tàu biển ra vào hoạt động để bốc túa hàng hoá, đón trả hành khách và thực hiện những nhà cung cấp khác; là một phòng ban quan yếu ko thể thiếu cho hoạt động của khu kinh tế mở, khu thương nghiệp tự do, khu công nghiệp, chế xuất; là nơi trong khu vực giao nhau giữa lục địa và biển. Cảng biển đồng thời là mắt xích của vận tải đa phương thức, ở đó những phương tiện vận tải biển, vận tải đường sắt, vận tải đường sông hoặc đường hàng ko đi qua, là nơi sở hữu sự thay đổi hàng hoá từ phương tiện vận tải biển sang phương tiện vận tải khác và trái lại do đó hậu phương của cảng thường rộng to”.
Tương tự, một cảng biển sẽ bao gồm hai khu vực: Vùng nước cảng và vùng đất cảng.

Vùng nước cảng: Là vùng nước được giới hạn để thiết lập vùng nước trước cầu cảng, vùng quay trở tàu, khu neo đậu, khu chuyển tải, khu tránh bão, vùng đón trả hoa tiêu, vùng kiểm dịch; vùng để xây dựng luồng cảng biển và những dự án phụ trợ khác. Đây chính là khu vực sở hữu tác động quyết định tới hoạt động phục vụ tàu ra vào cảng, bao gồm sở hữu vũng chờ và khu nước trước cảng:

Vùng đất cảng: Là vùng đất được giới hạn để xây dựng cầu cảng, kho, bãi, nhà xưởng, trụ sở, những cơ sở vật chất nhà cung cấp logistics, hệ thống liên lạc, thông tin liên lạc, điện nước, những dự án phụ trợ khác và lắp đặt thiết bị. Trong đó, cầu cảng là kết cấu nhất định thuộc bến cảng, được sử dụng cho tàu biển neo đậu, bốc túa hàng hoá, đón trả hành khách và thực hiện những nhà cung cấp khác; bến cảng sở hữu thể sở hữu một hoặc nhiều cầu cảng.
Vai trò của cảng biển đối với sự phát triển của hoạt động logistics
Nghiên cứu kinh nghiệm của những nước trên toàn cầu cho thấy rằng, để phát triển toàn diện và tăng trưởng kinh tế cao thì hầu hết những Chính phủ cần nhận rõ vai trò của cảng biển. Với hơn 80% hàng hoá xuất nhập khẩu trên toàn cầu được vận chuyển bằng đường biển thông qua những cảng biển, cảng biển là đầu mối quan yếu trong lưu thông hàng hoá, đóng vai trò hết sức quan yếu trong quá trình phát triển kinh tế của quốc gia cũng như hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Cảng biển tạo cơ sở vật chất cho những hoạt động nhà cung cấp, cho chính cảng biển và cho hàng loạt những ngành khác. Lúc nhà cung cấp cảng biển (logistics) phát triển, cảng biển sẽ thu hút được nhiều tàu thuyền, nhiều hàng hoá xuất nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, quá cảnh, từ đó quan hệ kinh tế, thương nghiệp của một quốc gia cũng được phát triển về mọi mặt. Những hoạt động này mang lại nguồn lợi đáng kể cho tất cả các nước sở hữu biển, nhất là việc thu hút được một lượng ngoại tệ to hàng năm về cho quốc gia. Chính vì vậy, việc phát triển hệ thống cảng biển, giảm mức giá vận tải và nhà cung cấp logistics sẽ góp phần làm tăng năng lực khó khăn, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh quyến rũ cho mỗi quốc gia.

Với Việt Nam, trong quá trình đổi mới, mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, cảng biển càng sở hữu vai trò quan yếu, là đầu mối liên lạc hàng hải mạch máu giữa nước ta với Châu Âu, Châu Mỹ, Trung Đông và Châu Á, là đầu mối giao nhận, TT phân phối hàng hoá cho mọi hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia và là lối vào để giao lưu kinh tế quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế biển của quốc gia.

Cảng biển phát triển tương trợ xúc tiến sự phát triển của những khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế… nhằm thu hút tài chính đầu tư, đặc thù là vốn đầu tư nước ngoài, tạo động lực cho quá trình tiếp thu khoa học, dịch chuyển cơ cấu kinh tế quốc tế. Những hoạt động nhà cung cấp đi kèm (hoa tiêu, lai dắt, bảo dưỡng sửa chữa và tàu, cung ứng cho tàu, trung chuyển hàng hoá quốc tế…) tương trợ cho tàu và hàng hoá đi và tới cảng, tạo nguồn thu đảm bảo duy trì hoạt động và phát triển cảng, góp phần xúc tiến kinh tế quốc gia và địa phương cảng phát triển.

Sự phát triển cơ sở vật chất vật chất kỹ thuật của cảng biển sẽ đáp ứng nhu cầu thương nghiệp hàng hoá trong phạm vi khu vực cũng như trên toàn toàn cầu, xúc tiến hoạt động xuất nhập khẩu, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, tăng cường vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Thực tiễn phát triển hoạt động logistics ở những nước trên toàn cầu cho thấy, logistics chỉ sở hữu thể phát triển trên nền tảng cơ sở vật chất hạ tầng vững chắc, đặc thù là cơ sở vật chất hạ tầng cảng biển. Nói cách khác, cảng biển đóng vai trò rất quan yếu, quyết định sự phát triển của ngành logistics.

Với tất cả các nước sở hữu cảng biển phát triển, đặc thù tại địa phương sở hữu cảng, được xem như một lợi thế so sánh cho sự hình thành và phát triển những khu kinh tế, khu công nghiệp, công nghiệp khai thác, công nghiệp đóng tàu, cho phép tạo nhiều công ăn việc làm phục vụ kinh tế địa phương.

Sự phát triển của cảng biển giúp ngành logistics giảm mức giá, tăng khả năng khó khăn và tăng chất lượng lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ điểm đầu của dây chuyền cung ứng cho tới tay người tiêu sử dụng. Để cả quá trình này họat động một cách nhịp nhàng, hiệu quả thì ngoài khả năng tổ chức thực hiện của nhà sản xuất nhà cung cấp còn cần thiết một hệ thống cảng biển thích hợp để phục vụ cho những họat động này. Với một cảng biển tốt sẽ giúp tiết kiệm được nhiều mức giá cho cả quá trình tổ chức thực hiện nhà cung cấp logistics. Ví dụ, nếu cảng biển được xây dựng ở vị trí thuận lợi (sở hữu thể kết nối trực tiếp với vận tải đường biển, đường sông, đường hàng ko, đường bộ, đường sắt, đường ống) sẽ giúp giảm bớt mức giá về vận tải do sở hữu thể kết hợp tốt vận tải đa phương thức. Những thiết bị chuyên sử dụng hiện đại của cảng sẽ giúp rút ngắn thời kì xếp túa hàng, đồng nghĩa với việc giảm bớt mức giá lưu kho, lưu bãi, tồn trữ…Còn chủ tàu sẽ giảm bớt được mức giá neo đậu làm hàng. Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử trực tuyến (EDI) sẽ giúp giảm bớt mức giá về thủ tục giấy tờ, giúp những nhà sản xuất nhà cung cấp logistics kiểm soát và quản lý được thông tin về hàng hóa mọi lúc mọi nơi …Riêng đối với cảng mở sẽ giúp giảm bớt những mức giá về thủ tục thương chính, thuế xuất nhập khẩu… Tất cả những yếu tố nói trên sẽ giúp ngành logistics giảm bớt mức giá, tăng khả năng khó khăn và tăng chất lượng nhà cung cấp.

Rate this post

Bình luận