Khái quát quá trình hình thành và phát triển ngành điện Việt Nam

Điện năng là loại hàng hoá với vai trò quan yếu ko chỉ đối với đời sống hàng ngày của xã hội mà còn với ý nghĩa đối với quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mọi quốc gia. Trong thực tiễn, điện năng được sản xuất từ những nguồn năng lượng chủ yếu sau: than đá, sức nước, sức gió, năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử… Điện năng là loại hàng hoá mang tính chất đặc thù do ko với hàng tồn kho và điện năng cũng ko thể dự trữ được như những loại hàng hoá thông thường khác. Trong quá trình tiêu sử dụng, điện năng được chuyển hoá thành những dạng năng lượng khác như nhiệt năng, cơ năng, quang đãng năng…Vai trò của điện năng đối với nền kinh tế quốc dân là vô cùng to to đặc thù trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế toàn cầu cùng với tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá quốc gia. Điện năng tác động đáng kể tới sự phát triển kinh tế của một quốc gia trong nhiều ngành nghề, ngành bao gồm: công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp – dich vụ. Ko những vậy, điện năng còn tác động tới sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế và chất lượng cuộc sống của những tầng lớp dân cư trong xã hội. Trong nền kinh tế, điện năng là nguồn nhiên liệu đầu vào của tất cả những ngành nghề – ngành để sản xuất ra những hàng hoá, nhà cung cấp. Ngoài ra, trình độ phát triển của quốc gia còn chịu sự tác động của điện năng trong khi mức tiêu thụ điện năng bình quân trên đầu người hiện nay được nhiều quốc gia sử dụng để đo lường mức độ phát triển quốc gia. Từ chính những lý do trên đã cho thấy tầm quan yếu của điện năng nói chung và của ngành điện Việt Nam nói riêng trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội. Lịch sử ngành điện Việt Nam đã trải qua nhiều bước đi thăng trầm với sự nỗ lực, phấn đấu của Chính phủ và những cơ quan quản lý chuyên ngành với mục tiêu phát triển, hoàn thiện ngành điện để từng bước sản xuất hàng hoá điện năng chất lượng cao cho toàn xã hội và phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội. Quá trình hình thành và phát triển ngành điện Việt Nam được khái quát theo những giai đoạn dưới đây:

Giai đoạn 1954-1975: Trong giai đoạn này, Cục Điện lực trực thuộc Bộ Công Thương được thành lập là cơ quan quản lý Nhà nước trước nhất về ngành điện. Trong giai đoạn này, hai nhà máy Thuỷ điện và Nhiệt điện là Uông Bí và Thác Bà được xây dựng đã đóng góp đáng kể nâng tổng công suất nguồn điện quốc gia lên 1.326,3 MW.

Giai đoạn 1976 – 1994: Trong giai đoạn này, ngành điện Việt Nam từng bước giải quyết được nhu cầu điện cho quá trình đổi mới quốc gia. Nhiều dự án sản xuất điện năng quan yếu được xây dựng bao gồm: Nhà máy Nhiệt điện Phả Lại (công suất 440 MW); Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình (công suất 1.920 MW); Nhà máy Thuỷ điện Trị An (công suất 440 MW). Một số lượng to những đường dây và trạm biến áp 220 KV được triển khai, tiêu biểu là đường dây 500 KV Bắc Nam với tổng chiều dài là 1.487 km gồm 4 trạm biến áp 500KV được xây dựng và vận hành. Đây là giai đoạn với ý nghĩa quan yếu của ngành điện vì đã làm cho hiệu quả khai thác nguồn điện được gia tăng đáng kể và làm hạ tầng cho sự phát triển đối với những ngành liên quan như cơ khí điện, xây lắp điện, tư vấn thiết kế điện.

Giai đoạn 1995-2002: Đây là giai đoạn mà vai trò của ngành điện được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn, với ý nghĩa chiến lược đối với quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá quốc gia. Ngày 27/01/1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 14/NĐ-CP thành lập Tổng tổ chức Điện lực Việt Nam (gọi tắt là EVN). Để xây dựng và vận hành những dự án trọng tâm ngành điện, Chính phủ đã đề xuất nhiều giải pháp huy động vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để phục vụ cho quá trình đầu tư trong giai đoạn này. Những dự án tiêu biểu mang tầm chiến lược đối với ngành điện trong giai đoạn này bao gồm: Nhà máy Thuỷ điện Ialy (công suất 475 MW); Nhà máy Thuỷ Nhiệt điện Phả Lại được nâng cấp (công suất 1.000 MW); Trung tâm Điện lực Phú Mỹ (công suất 2.000 MW)

Giai đoạn 2003-nay: Ngành điện giai đoạn này được tái cơ cấu lại với mục đích đảm bảo tính thống nhất và ổn định trong toàn ngành. Theo đó, EVN đã chuyển đổi mô phỏng phát triển trở thành tập đoàn kinh tế mũi nhọn của quốc gia trong ngành đầu tư, phát triển hạ tầng hạ tầng điện lực. Khối lượng đầu tư xây dựng trong giai đoạn này lên tới 505.010 tỷ đồng, chiếm khoảng 7,14% tổng đầu tư cả nước. Tới cuối năm 2014, cả nước với 100% số thị xã với điện lưới và điện tại chỗ; 99,59% số xã với 98,22% số hộ dân với điện lưới. Điện năng đã được sản xuất tới tận những vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa; trong đó, khu vực những tỉnh miền núi Tây Bắc đạt 97,55% về số xã và 85,09% số hộ dân với điện; khu vực những tỉnh Tây Nguyên là 100% và 95,17%; khu vực Tây Nam Bộ là 100% và 97,71%.

Luật Điện lực được ban hành ngày 03/12/2014 tạo phạm vi pháp lý cho hoạt động điện lực, tăng tính sáng tỏ và sự công bằng đối với những chủ thể tham gia hoạt động trong ngành điện năng và xúc tiến phát triển hiệu quả cung ứng cho ngành điện.

Qua đó, Tập đoàn Điện lực và những ban ngành liên quan đã triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành điện theo định hướng từng bước thị trường hóa ngành điện một cách sáng tỏ, canh tranh hơn nhằm tăng cả mặt chất và mặt lượng của nguồn cung điện, đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia và từng bước hoàn thiện thị trường kinh doanh điện khó khăn trong tương lại.

Rate this post

Bình luận