Nội dung của hội nhập kinh tế quốc tế

Tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành năm mô phỏng cơ bản từ thấp tới cao như sau:

(i) Thỏa thuận thương nghiệp ưu đãi (PTA): Những nước thành viên dành cho nhau những ưu đãi thương nghiệp trên cơ sở vật chất cắt giảm thuế quan, nhưng còn hạn chế về phạm vi (số lượng những mặt hàng đưa vào diện cắt giảm thuế quan) và mức độ cắt giảm. Hiệp nghị PTA của ASEAN (1977), Hiệp nghị Thương nghiệp Việt-Mỹ (2001), Hiệp nghị GATT (1947 và 1994) là những ví dụ cụ thể của mô phỏng liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.

(ii) Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Những thành viên phải thực hiện việc cắt giảm và loại bỏ những hàng rào thuế quan và những hạn chế về định lượng (với thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong thương nghiệp hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với những nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm sắp đây, phần to những hiệp nghị FTA mới với phạm vi ngành điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài ngành hàng hóa, những hiệp nghị này còn với những quy định tự do hóa đối với nhiều ngành khác như nhà sản xuất, đầu tư, sở hữu trí tuệ, sắm sắm chính phủ…

Ví dụ: Hiệp nghị FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp nghị Đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP (nay là Hiệp nghị Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dƣơng – CPTPP).

(iii) Liên minh thuế quan (CU): Những thành viên ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương nghiệp nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với những nước bên ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút-Cadăcxtan.

(iv) Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan trong thương nghiệp nội khối và với chính sách thuế quan chung đối với ngoài khối, những thành viên còn phải xóa bỏ những hạn chế đối với việc lưu chuyển của những yếu tố sản xuất khác (vốn, lao động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường chung châu Âu) trước lúc trở thành một liên minh kinh tế.

(v) Liên minh kinh tế – tiền tệ: Là mô phỏng hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa trên cơ sở vật chất một thị trường chung/duy nhất cùng thêm với việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung, nhà băng trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.

Một nước với thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua những bước hội nhập từ thấp tới cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ với thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cùng đồng Kinh tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan yếu cho sự tồn tại vững bền của hội nhập trong những ngành khác, đặc trưng là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được những nước ưu tiên xúc tiến giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Yêu cầu đặt ra đối với phát triển nông nghiệp trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế:

Thứ nhất, mặc dù ngành Nông nghiệp hiện nay còn rất nhiều tồn tại cần khắc phục như: Quy mô sản xuất của hộ nông dân nhỏ; kết cấu hạ tầng yếu kém, trình độ ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật thấp; chuỗi liên kết, chuỗi cung ứng nông nghiệp chưa hình thành; chất lượng nguồn nhân lực thấp và dưới sức ép do hội nhập tạo ra… Trước những sức ép này thì thời cơ để tái cơ cấu nông nghiệp, tăng năng suất và cải thiện cơ cấu ngành nông nghiệp sẽ thuận lợi nếu biết tận dụng những lợi ích mà hội nhập mang lại như thu hút kỹ thuật cao, giảm thuế trong nông nghiệp,…

Thứ hai, vị thế của ngành Nông nghiệp gia tăng thông qua thời cơ tham gia vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu lúc việc mở rộng thị trường nội địa dẫn tới nông sản Việt Nam sẽ với nhiều thời cơ tiếp cận với nhiều tầng lớp thị trường hơn, tránh sự phụ thuộc vào thị trường Trung Hoa. Hơn thế thông qua những thị trường trung gian, nông sản Việt Nam sẽ với thời cơ mở rộng thị trường, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng nông sản toàn cầu.

Thứ ba, tận dụng hội nhập đề hu hút đầu tư vào ngành Nông nghiệp, thông qua việc đón đầu những hình thức đầu tư mới, như đầy tư vào nông nghiệp kỹ thuật cao, công nghiệp tương trợ

Thứ tư, từng bước xúc tiến cải cách thiết chế và môi trường kinh doanh trong ngành nông nghiệp và với tác động lan tỏa tới những ngành khác dựa trên cơ sở vật chất hệ thống chính sách sẽ được điều chỉnh thích hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ năm, Tăng cường đầu tư cho khoa học kỹ thuật: Với thể nói hạn chế về đầu tư khoa học kỹ thuật trong ngành nông, quá trình xây dựng nền nông nghiệp kỹ thuật cao hạn chế, chưa tạo đột phá nhằm tăng GTGT và dịch chuyển cơ cấu kinh tế theo hướng vững bền. Thiết bị và kỹ thuật chế biến sau thu hoạch còn lạc hậu, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo quản thúc biến còn chưa phát triển, quy mô nhỏ, tỷ lệ hao hụt, thất thoát cao. Ngoài ra sự phát triển lực lượng khoa học nông nghiệp còn yếu kém, nhiều ngành như kỹ thuật sinh vật học thiếu nhân lực trình độ cao nên chậm được triển khai; điều kiện vật chất kỹ thuật của những cơ sở vật chất nghiên cứu, huấn luyện còn lạc hậu, ko đồng bộ, dẫn tới tình trạng huấn luyện nhân lực cho khoa học và kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, nông thôn chưa gắn lý thuyết với thực hiện, thiếu những nghiên cứu chuyên sâu trên một đơn vị sản phẩm. Điều này đòi hỏi phải từng bước ứng dụng khoa học kỹ thuật trình độ cao dưới nhiều hình thức khác nhau như cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, tăng chất lượng lực lượng khoa học kỹ thuật nhằm giải quyết được yêu cầu hội nhập ngày càng cao, nhất là lúc cuộc cách mệnh công nghiệp 4.0 đang từng bước hình thành và phát triển trên toàn cầu

Rate this post

Bình luận