Thực trạng phát triển của doanh nghiệp Hải Phòng từ năm 2005-2017

Cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội cũng như những đổi mới về cơ chế, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giai đoạn từ 2000 tới 2017 là thời kỳ những doanh nghiệp ra đời, hoạt động khá nhanh trên khu vực Hải Phòng. Cụ thể như sau:

Tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp: Sở hữu thể thấy rằng, kể từ lúc mang Luật doanh nghiệp, với những cơ chế thông thoáng, thuận tiện trong đăng ký kinh doanh, số lượng doanh nghiệp đăng ký tăng khá Nếu như năm 2005 trên khu vực thành xã mang 5772 doanh nghiệp thì tới năm 2017 đã mang 36,937 doanh nghiệp, gấp 6,5 lần so với năm 2005. Ở giai đoạn 2006-2010, hàng năm số doanh nghiệp đăng ký mới là xấp xỉ 3000 doanh nghiệp, giai đoạn 2011-2017 số doanh nghiệp đăng ký mới hàng năm cũng ở mức trên 2500 doanh nghiệp/ năm.

Phát triển về quy mô doanh nghiệp: Ko chỉ tăng nhanh về số lượng doanh nghiệp mà số vốn đăng ký của những doanh nghiệp cũng tăng đáng kể. Nếu như vốn đăng ký của những doanh nghiệp năm 2010 là 206.335 tỷ đồng thì tới năm 2015 đã là 399.859 tỷ đồng tăng gấp 2 lần trong năm năm và số lao động của những doanh nghiêp cũng tăng từ 303.511 người năm 2010 lên tới 376.818 người vào năm 2015. Điều đó khẳng định việc phát triển doanh nghiệp mang vai trò to to trong khắc phục việc làm và tăng mức sống của người dân. Ko chỉ phản ánh những mục tiêu về số lượng, việc tốc độ tăng của doanh nghiệp to hơn tốc độ tăng của việc làm cho thấy những doanh nghiệp đã quan tâm tới việc sử dụng mang hiệu quả lao động, năng suất lao động tăng lên. Đặc trưng, qua chuỗi số liệu tăng về quy mô doanh thu của những doanh nghiệp. Cụ thể, doanh thu của khối DN năm 2010 là 186.827 tỷ đồng thì tới năm 2015 đã là 384.781 tỷ đồng, năm 2016 là 517.265 tỷ đồng, tăng gấp hơn 2 lần so với 2010. Việc phát triển của những doanh nghiệp đã đóng góp to to vào việc tăng GDP của thành xã. Theo số liệu của thống kê, tới năm 2017 khối doanh nghiệp ngoài nhà nước (ko kể những doanh nghiệp FDI) đã chiếm sắp 50% GDP trên toàn thành xã và cũng đóng góp quan yếu vào hoạt động thu ngân sách địa phương.

Tuy nhiên, việc linh hoạt của hoạt động Đăng ký kinh doanh, với cơ chế “tiền đăng. hậu kiểm”, số lượng doanh nghiệp đăng ký qua hàng năm và lũy kế là khá cao, nhưng số lượng doanh nghiệp thực tế hoạt động lại chỉ đạt xấp xỉ 40% cũng là thấp và cho thấy sự khó khăn của doanh nghiệp lúc đi vào hoạt động và hoạt động mang hiệu quả.

Quy mô vốn đăng ký bình quân trên một DN năm 2016 đạt 5,2 tỷ đồng, giảm 10% so với năm 2010 và giảm sắp 40% so với năm 2005. Điều đó thể hiện tính thuận tiện, đơn thuần hóa trong việc thành lập doanh nghiệp nhưng lúc những doanh nghiệp đi vào hoạt động thì quy mô vốn năm 2016 lại tăng 20% so với 2010.

+ Theo thành phần kinh tế: Giai đoạn 2005-2015 là thời kỳ Chính phủ cũng như thành xã đẩy mạnh việc CPH, đổi mới, sắp xếp lại những doanh nghiệp Nhà nước, cơ cấu doanh nghiệp mang sự thay đổi to. Nếu như năm 2005, số doanh nghiệp Nhà nước chiếm 15% trong tổng số doanh nghiệp đăng ký thì tới năm 2010 con số đó chỉ còn 5,4% và 2016 chỉ còn 1,23% trên tổng số doanh nghiệp đăng ký, giảm bình quân 1,92%/năm. Doanh nghiệp Nhà nước chỉ còn chiếm 10,57% về số lao động; 20,32% về vốn thực tế sử dụng; 12,6% về doanh thu thuần và 18,8% về tổng số thuế và những khoản phải nộp ngân sách Nhà nước.

Doanh nghiệp ngoài Nhà nước mang 9.660 doanh nghiệp, chiếm tỷ trọng 95,79% trên tổng số doanh nghiệp đang hoạt động, tăng bình quân 6,4%; chiếm 58,5% về lao động; chiếm 52,03% về vốn thực tế sử dụng. 35,5% về trị giá tài sản khăng khăng và đầu tư dài hạn; chiếm 59,6% doanh thu thuần và 44,3% về tổng thuế và những khoản phải nộp NSNN.

Doanh nghiệp mang vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là trên 300 doanh nghiệp chiếm tỷ trọng chỉ 2,97% trên tổng số doanh nghiệp trên khu vực nhưng lại khắc phục 30,9% lao động; chiếm 27,6% về vốn thực tế sử dụng; 34,7% về trị giá tài sản khăng khăng và đầu tư dài hạn; 37,7% về doanh thu thuần và 36,8% về thuế và những khoản phải nộp NSNN.

+ Theo hình thức tổ chức doanh nghiệp: Trong lúc đó số đơn vị TNHH 2 thành viên trở lên chiếm 50% năm 2005 thì tới 2010 giảm xuống còn 42,5% và tới 2016 chỉ chiếm 35,4%. Số đơn vị TNHH một thành viên năm 2005 ko đáng kể, tới năm 2010 đã chiếm 24% và tới 2016 đã là 34,5%. Tổ chức cổ phần năm 2005 chiếm 32% khá cao trong tỷ trọng những doanh nghiệp đăng ký kinh doanh thì tới 2010 giảm xuống còn 28% và tới 2016 chỉ còn 25%. Tương tự ta thấy, về cơ cấu doanh nghiệp theo cách sở hữu cũng mang sự biến động khá to, những loại hình doanh nghiệp thích hợp cho việc huy động vốn cũng như quản lý, quản lý dần tăng lên và chiếm tỷ trọng chi phối, đó cũng là xu hướng tích cực, thích hợp với yêu cầu phát triển chung của Việt Nam.

+ Theo nhóm ngành kinh tế: Nhóm ngành công nghiệp mang 1.671 doanh nghiệp chiếm 16,6% trên tổng số doanh nghiệp, tăng bình quân trên 3,04%/năm; nhóm ngành xây dựng mang 1.011 doanh nghiệp chiếm 10% trên tổng số doanh nghiệp, tăng bình quân 9,0%/năm; nhóm ngành thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng mang 4.117 doanh nghiệp chiếm 40,9% trên tổng số doanh nghiệp, tăng 3,53%/năm; nhóm ngành vận tải, bưu chính viễn thông mang 2.080 doanh nghiệp chiếm hơn 20%, tăng bình quân 14,4%/năm

;nhóm những ngành nhà cung cấp khác mang 1.038 doanh nghiệp chiếm 10,3% trên tổng số doanh nghiệp, tăng bình quân 9,01%/năm; nhóm ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản mang 145 doanh nghiệp chiếm 1,5% trên tổng số doanh nghiệp, giảm bình quân 2,73%/ năm. Sự biến đổi cơ cấu doanh nghiệp theo ngành phản ánh đúng tiềm năng, lợi thế và định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế của thành xã, tăng tỷ trọng nhóm ngành nhà cung cấp (70%), giảm nhóm ngành nông nghiệp (1,5%)

Biểu 3.4: Cơ cấu phân theo loại hình doanh nghiệp

(Nguồn: Phòng ĐKKD sở KHĐT)

Sở hữu thể khẳng định việc phát triển của những doanh nghiệp đã đóng góp to to vào việc tăng GRDP của thành xã. Theo số liệu của thống kê, tới năm 2016 khối doanh nghiệp ngoài nhà nước (Ko kể những doanh nghiệp FDI) đã tạo ra phần trị giá tăng thêm chiếm sắp 50% GRDP trên toàn địa bàn và cũng đóng góp quan yếu vào hoạt động thu ngân sách địa phương tăng trên 20%/năm liên tục hai năm 2016 và 2017.

Tuy nhiên, việc linh hoạt của hoạt động Đăng ký kinh doanh, với cơ chế “tiền đăng. hậu kiểm”, số lượng doanh nghiệp đăng ký qua hàng năm và lũy kế là khá cao, nhưng số lượng doanh nghiệp thực tế hoạt động lại chỉ đạt xấp xỉ 40% cũng là thấp và cho thấy sự khó khăn của doanh nghiệp từ đăng ký kinh doanh tới lúc đi vào hoạt động và hoạt động mang hiệu quả.

Rate this post

Bình luận