Những thành công, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân trên thị trường chứng khoán

a) Những thành công

– Thành công của TTCK Việt nam trong 17 năm hình thành và phát triển đó là đã tạo lập được môi trường đầu tư chứng khoán, hình thành những phạm vi pháp lý, những cơ chế điều tiết và vận hành thị trường.

– Tạo kênh huy động vốn quan yếu cho phát triển và tăng trưởng kinh tế đối với cả doanh nghiệp (thông qua việc cổ phần hóa, phát hành cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp) và chính phủ (thông qua việc đấu giá trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân khố nhà nước và phát hành trái phiếu ra TTCK nước ngoài)

b) Những tồn tại và hạn chế

– Sự khởi đầu hoạt động thị trường chứng khoán Việt Nam là chưa như ý muốn của những nhà hoạch định, tổng trị giá vốn hóa của thị trường qua những năm tuy đã đạt kết quả nhất định, nhưng vẫn với sự tăng giảm ko đều và dao động to. Tuy sự dao động là đặc trưng của thị trường chứng khoán music, tổng trị giá vốn hóa chưa đồng bộ với những yếu tố kinh tế vĩ mô khác.

– Chỉ số VN Index chưa làm tốt vai trò là tiêu chuẩn giám định tình hình đầu tư, kinh doanh của những doanh nghiệp niêm yết do nhiều hoạt động đầu tư, đẩy giá hoặc thao túng đầu tư làm cho VN Index chưa phản ánh đúng tình hình cung cầu trên thị trường. Tại Biểu đồ liên tục giảm từ 2007-2012, giai đoạn 2013-2107 với sự dao động ko ổn định.

– Tổng trị giá vốn hóa thị trường chứng khoán Việt nam tính tới 2017 đạt mức 3.360.000 tỷ đồng tương đương với khoảng 148 tỷ USD [Phụ lục 2] nhưng vẫn là thị trường với quy mô nhỏ so với những nước khu vực và toàn cầu. Trong lúc đó tỷ lệ vốn hóa của TTCK Việt nam đã đạt 74,6% GDP là mức khá cao so với tỷ lệ vốn hóa so với GDP bình quân trên toàn cầu, do vậy việc muốn tăng trị giá vốn hóa trên thị trường để huy động vốn cho nền kinh tế chỉ với nguồn lực duy nhất là tăng trưởng GDP.

– Vai trò huy động vốn và tác động tích cực tới nền kinh tế chưa được thể hiện rõ ràng, cho thấy huy động vốn cho nền kinh tế trong giai đoạn này phần to vẫn dựa vào kênh nhà băng, thông qua những dụng cụ của chính sách tiền tệ, thị trường chứng khoán đóng vai trò khiêm tốn đối với nền kinh tế và chưa trở thành kênh huy động vốn hiệu quả cho những doanh nghiệp.

Chúng ta với thể xem xét tương quan giữa chỉ số thị trường với trị giá vốn hóa thị trường của TTCK Việt nam 2007-2017 để thấy rõ vai trò của trị giá và tỷ lệ vốn hóa đối với chỉ số thị trường.

Biểu đồ 2.13 cho thấy mối tương quan giữa trị giá vốn hóa và chỉ số VN Index là rất mờ nhạt với , tương tự tại TTCK Việt nam giai đoạn 2007-2017, trị giá vốn hóa hầu như ko với tác động nhiều tới việc tăng giảm chỉ số thị trường VN Index.

Trên thực tế, nhà băng thương nghiệp vẫn là nơi sản xuất vốn chủ yếu cho những doanh nghiệp trong nền kinh tế kể cả vốn ngắn hạn và dài hạn và thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn chưa thể hiện rõ vai trò là kênh dẫn vốn dài hạn quan yếu nhất của nền kinh tế, đây là điểm hạn chế cần được nghiên cứu và điều chỉnh thích hợp với sự phát triển của thị trường trong thời kì tới.Biểu đồ 2.13- Trị giá vốn hóa và VN Index TTCK Việt Nam 2007-2017

Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước

c) Nguyên nhân

– Chính sách, quy định vận hành và điều tiết thị trường chứng khoán sau giai đoạn được ban hành, ứng dụng đang được kiểm nghiệm qua thực tế để tiếp tục điều chỉnh, hoàn thiện;

– Hệ thống môi trường pháp lý vẫn còn thiếu nhiều cơ chế vận hành thị trường chứng khoán như hạ tầng kỹ thuật, khung pháp lý, những quy định bảo vệ nhà đầu tư…

– Chưa với chính sách hiệu quả thu hút luồng vốn nhàn rỗi trong dân cư, khuyến khích tài chính đầu tư gián tiếp nước ngoài và lượng kiều hối hàng năm vào đầu tư chứng khoán; hình thức đầu tư chứng khoán vẫn còn hạn chế do chưa với sự phổ biến về hàng hóa trên thị trường, chủ yếu là cổ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ quỹ.

Biểu đồ 2.14 cho thấy, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK Việt nam trong giai đoạn 2008-2017 chỉ tăng ròng rã 31.181 tỷ đồng tương đương với khoảng 1,48 tỷ USD, đây là số lượng vốn rất nhỏ so với tiềm năng hàng hóa trên thị trường. Điều này xuất phát từ chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài chưa quyến rũ nhà đầu tư và room đối với nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường vẫn còn rất hạn chế.

Biểu đồ 2.14- Trị giá giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài 2007-2017

Nguồn: Ủy ban chứng khoán nhà nước

– Hậu quả của khủng hoảng tài chính Châu Á năm 2008 vẫn còn tác động tới thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kì này dẫn tới việc những giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế và chưa tập trung về nguồn lực đầu tư đối với những quỹ đầu tư và nhà đầu tư với tổ chức nước ngoài.

Rate this post

Bình luận