Thị trường nội tệ liên nhà băng còn được gọi tắt là thị trường liên nhà băng chính là thị trường cho vay và gửi tiền (cả bằng nội tệ và ngoại tệ) giữa những TCTD. Thị trườngdo NHNN tổ chức và quản lý,được hình thành và đi vào hoạt động năm 1993, là nơi thực hiện việc cho vay và đi vay lẫn nhau giữa những nhà băng nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt tạm thời nhu cầu vốn khả dụng và là nơi tạo điều kiện để những NHTM tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của mình.NHNN tham gia vào thị trường này với tư cách là thành viên và tác động lên thị trường để thực thi CSTT. Thông qua thị trường này, NHNN phần nào đã nắm bắt được nhu cầu vốn khả dụng của những NHTM, góp phần thực hiện tốt chức năng là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế.
Giai đoạn trước năm 1993, thị trường nội tệ liên nhà băng Việt Nam mới chỉ phát triển ở mức độ sơ khai do những TCTD mới được thành lập, chưa thực sự sở hữu nhu cầu về vốn và chưa sở hữu thói quen khai thác vốn lẫn nhau. Do đó, NHNN tổ chức mô phỏng thị trường liên nhà băng tập trung giúp những thành viên thị trường sở hữu điều kiện tìm hiểu, chắp nối cung cầu trên thị trường, tạo nền tảng cho thị trường phát triển. Theo đó, những nhà băng to nhất là những NHTM nhà nước thực hiện những giao dịch tập trung 1 phiên/tuần thông qua những tài khoản tại NHNN, qua đó tạo điều kiện để NHNN kiểm soát khối lượng trao đổi và lãi suất trên thị trường. NHNN vừa là người tổ chức, vừa là thành viên của thị trường, sở hữu thể cho những thành viên vay hoặc bảo lãnh việc vay giữa những thành viên.
Trong giai đoạn 1994-1998, hoạt động của thị trường nội tệ liên nhà băng trở nên linh hoạt và được tự do hơn, mặc dù chưa sở hữu hệ thống máy tính nối mạng nên việc thực hiện giao dịch còn nhiều bất tiện. Lúc những TCTD đã xây dựng được mối quan hệ tín nhiệm trong giao dịch vay mượn thì những thành viên thực hiện giao dịch trực tiếp với nhau vào tất cả những ngày làm việc trong tuần mà ko phải thông qua NHNN và qua trung tâm giao dịch. Điều này một phần tác động tới khả năng kiểm soát của NHNN về lãi suất, khối lượng trao đổi bị hạn chế do NHNN ko nắm được thông tin của thị trường mặc dù những NHTM đã được yêu cầu phải báo cáo về những giao dịch.
Trong giai đoạn 1999-2006, hoạt động của thị trường từng bước được cải thiện nhờ: (i) Phạm vi pháp lý hoàn thiện hơn, nhất là Luật những TCTD ra đời đã tạo ra sự đồng đẳng cho những TCTD trong việc tiếp cận những khoản tín dụng của NHNN; (ii) Hệ thống cơ sở vật chất hạ tầng về kỹ thuật, kỹ thuật nhà băng nhất là hệ thống trả tiền và giao dịch, kể cả những dụng cụ tài chính, được hiện đại hoá và phổ quát hoá; (iii) Việc tự do hoá dần lãi suất đã quyến rũ những TCTD tham gia thị trường; (iv) Những dụng cụ mới như nghiệp vụ thị trường mở (từ 2000), vay thấu chi, vay qua đêm và trả tiền bù trừ điện tử (2002) được đưa vào vận dụng và sử dụng linh hoạt hơn. Ngoài ra, những kỳ hạn cho vay cũng phổ quát hơn. Những yếu tố này đã tác động tích cực làm tăng doanh số giao dịch trên thị trường.
Trong giai đoạn 2007-2008, trước những diễn biến ngày càng nghiêm trọng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, giá dầu, giá vàng và những loại nguyên vật liệu tăng tác động tới giá bán sản xuất, lãi suất huy động từ dân cư tăng cao, NHNN đã thực hiện CSTT thắt chặt nhằm ứng phó với lạm phát cao khiến cho cho lượng tiền cung ứng giảm. Sự điều chỉnh liên tục trong CSTT của NHNN (điều chỉnh tăng lãi suất vận dụng cho dự trữ yêu cầu, tăng cường bán GTCG trên thị trường mở, yêu cầu những TCTD thực hiện tìm tín phiếu yêu cầu…) đã khiến cho nhu cầu vốn của những TCTD trở nên vô cùng khó khăn. Vì vậy, doanh số cho vay, gửi tiền trên TTTT cũng sở hữu sự gia tăng đột biến, sở hữu thời khắc doanh số gửi tiền VND trên thị trường liên nhà băng đã lên tới sắp 300.000 tỷ VND (sắp bằng ½ tổng mức đầu tư tín dụng của toàn nền kinh tế).Tính tới 30/6/2008, tổng doanh số cho vay và gửi tiền bằng VND đã tăng lên 198.507,203 triệu đồng, doanh số cho vay và gửi tiền bằng USD là 142.315,96 nghìn USD. Sở hữu thể nói đây là thời kỳ giao dịch sở hữu doanh số cao nhất tính cho cả giai đoạn 2005-2008, phản ánh tình trạng khó khăn về vốn khả dụng của những NHTM do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Cũng trong giai đoạn này, thị trường tồn tại tình trạng phân nhóm theo loại hình NHTM. Những NHTM trong nhóm thường sẵn sàng tương trợ nhau lúc gặp vấn đề về vốn khả dụng với những điều kiện cho vay thuần tuý hơn, kéo theo tình trạng khó khăn ko lành mạnh giữa những thành viên.
Tính tới hết năm 2018, số lượng thành viên đã tăng đáng kể (hơn 60 thành viên so với mức dưới 10 thành viên năm 2000). Phương thức giao dịch của thị trường đã dần được đổi mới, hầu hết những giao dịch đều thực hiện qua mạng, với kỳ hạn khá linh hoạt (qua đêm, 1 tuần, 2 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng).Lãi suất giao dịch bình quân trên thị trường liên nhà băng Việt Nam (VNIBOR) trên cơ sở vật chất chào giá hàng ngày của một số nhà băng cũng đã được xây dựng.
Không những thế, khó khăn về vốn khả dụng của hệ thống nhà băng về cơ bản đã được khắc phục, doanh số giao dịch trên thị trường cũng dần đi vào ổn định, giúp sản xuất vốn đầu tư thanh khoản cho những TCTD, góp phần ko nhỏ đảm bảo an toàn hệ thống nhà băng.Cụ thể:
– Cuối năm 2008 tới 2012, CSTT thay đổi với tần suất to để ứng phó với diễn biến phức tạp của thị trường18, cùng với yếu kém trong quản trị tín dụng và vốn đầu tư, nhiều TCTD thường xuyên rơi vào tình trạng thiếu hụt thanh khoản. Để bù đắp thiếu hụt thanh khoản, nhiều TCTD vi phạm trần lãi suất huy động vốn trên thị trường 1 của NHNN. Lãi suất trên thị trường liên nhà băng (thị trường 2) cũng liên tục tăng cao 19. Bằng việc chủ động, linh hoạt trong sử dụng những dụng cụ CSTT và tăng cường thanh tra giám sát, giữ nghiêm kỷ luật thị thường, tình trạng vi phạm của những TCTD đã ko còn; khó khăn về lãi suất, thanh khoản của những TCTD cơ bản được khắc phục.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng và huy động vốn trên thị trường cho vay, gửi tiền giữa NHTM với những tư nhân, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế (2005- T6/2018)