Bằng việc sử dụng nợ vay, DN ko chỉ đáp ứng nhu cầu vốn kinh doanh thiếu hụt mà còn góp phần tạo thành một đòn bẩy nhằm gia tăng tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, việc sử dụng nợ vay được ví như “con dao hai lưỡi” trong khi nếu sử dụng ko hiệu quả sẽ làm cho DN lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính và với thể đi tới tình trạng vỡ nợ. Lúc DN sử dụng nợ vay, lãi tiền vay là một khoản giá bán khăng khăng mà DN định kỳ phải trả tiền cho chủ nợ. Nếu việc sử dụng nợ vay với hiệu quả, tức là phần lợi nhuận trước thuế và lãi vay do một đồng vốn tạo ra to hơn phần giá bán lãi vay thì phần chênh lệch chủ sở hữu thừa hưởng. Trái lại, nếu việc sử dụng nợ vay ko hiệu quả, tức là phần lợi nhuận trước thuế và lãi vay do một đồng vốn tạo ra nhỏ hơn phần giá bán lãi vay thì rủi ro lúc này bị chuyển sang đối với chủ sở hữu. Tác động của cơ cấu vốn đầu tư tới tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu được mô tả dưới công thức sau:
ROE = [BEP + D/E x (BEP –Rd)] x (1-t)
Trong đó:
Qua công thức trên, nhận thấy (1-t) là một hằng số; do vậy tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu sẽ (ROE) sẽ phụ thuộc vào những nhân tố sau: Tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản (BEP); Giá bán sử dụng vốn vay (Rd) và tỷ trọng giữa trị giá của nợ vay và vốn chủ sở hữu (D/E).
Trường hợp 1: Nếu BEP > Rd, tức là tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản to hơn giá bán sử dụng nợ vay. Trong trường hợp này, nợ vay càng được sử dụng nhiều sẽ càng làm khuyếch đại tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu của DN. Tuy nhiên, quyết định gia tăng mức độ sử dụng nợ vay sẽ làm gia tăng thêm rủi ro vỡ nợ nên những chủ nợ với xu hướng đòi hỏi mức lãi suất cao hơn dẫn tới giá bán sử dụng nợ của DN gia tăng và làm giảm bớt hiệu quả sử dụng nợ, kết quả là tác động tích cực của nợ tới ROE sẽ giảm bớt
Trường hợp 2: Nếu BEP < Rd, tức là tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản nhỏ hơn giá bán sử dụng nợ vay. Trong trường hợp này, nợ vay càng được sử dụng nhiều sẽ càng làm suy giảm tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu của DN.
Trường hợp 3: Nếu BEP = Rd, tức là tỷ suất sinh lời kinh tế của tài sản bằng giá bán sử dụng nợ vay. Trong trường hợp này, nợ vay được sử dụng ko với tác động tới việc gia tăng hay làm suy giảm tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu.
Qua phân tích tác động của cơ cấu vốn đầu tư tới tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu với thể nhận thấy: việc sử dụng nợ vay một mặt với thể khuyếch đại tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (nếu BEP > Rd) nhưng cũng với thể làm suy giảm tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu (nếu BEP < Rd) và đẩy DN tới những rủi ro về mất khả năng trả tiền. Việc sử dụng nợ vay đã được ví như “con dao hai lưỡi” là bởi nguyên nhân trên. Do vậy, yêu cầu đặt ra đối với những nhà quản trị DN là phải biết kết hợp hài hoà, hợp lý cơ cấu vốn đầu tư để vừa đạt được mục địch nhằm gia tăng tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu vừa đảm bảo rủi ro tài chính ở mức độ với thể chấp nhận được.
Việc DN sử dụng nợ vay với mục đích nhằm gia tăng tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu cũng chính là việc DN đã sử dụng đòn bẩy tài chính.
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính phản ánh tỷ lệ phần trăm thay đổi của tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay EPS) phát sinh do sự thay đổi của lợi nhuận trước thuế và lãi vay. Công thức xác định mức độ tác động của đòn bẩy tài chính như sau:
Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính cho thấy lúc lợi nhuận trước thuế và lãi vay tăng lên hay giảm đi 1% thì tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay EPS) sẽ tăng lên hay giảm đi bao nhiêu phần trăm. Mức độ tác động của đòn bẩy tài chính cũng phản ánh mức độ rủi ro tài chính DN lúc nó tác động làm biến động mạnh tới tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (hay EPS) và làm gia tăng nguy cơ mất khả năng trả tiền của DN.