Đánh giá thực hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động của doanh nghiệp

Phân tích thực hiện TNXH đối với NLĐ là tiến trình xác định tiêu chuẩn thẩm định, đo lường kết quả thực hiện so với kế hoạch đặt ra, đồng thời phát hiện những sai lệch, thực hiện những hành động khắc phục, ngăn ngừa trong quá trình thực hiện.

Xác định tiêu chuẩn thẩm định thực hiện TNXH đối với NLĐ

Tiêu chuẩn thẩm định thực hiện TNXH đối với NLĐ của DN gắn với những mục tiêu trong xây dựng kế hoạch thực hiện, đặc thù là TNXH đảm bảo quyền và lợi ích. Tiêu chuẩn thẩm định phải gắn với trách nhiệm của những đối tượng đảm trách. Mang thể cùng một tiêu chuẩn thẩm định thực hiện với từng tư nhân, phòng ban thực hiện khác nhau với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau thì tiêu chuẩn thẩm định thực hiện sẽ khác nhau. Tiêu chuẩn thẩm định thực hiện TNXH đối với NLĐ gồm:

Tiêu chuẩn thẩm định định lượng

Trách nhiệm đảm bảo quyền: số những điều khoản đảm bảo quyền cho NLĐ, tỷ lệ HĐLĐ ký đúng loại, tỷ lệ HĐLĐ kết thúc đúng PLLĐ; tỷ lệ thời kì làm việc đúng cam kết, số giờ làm thêm theo tuần, theo tháng, theo năm đúng PLLĐ; số chương trình tập huấn ATVSLĐ, PCCC, số lối thoát hiểm nguy cấp ko để bị vướng hoặc bị khóa trong giờ làm việc, số NLĐ được trang bị bảo hộ lao động, tỷ  lệ thực hiện đúng quy định tiền lương tối thiểu, tiền lương làm thêm vào ngày thường, ngày nghỉ phép, nghỉ lễ, tỷ lệ NLĐ được đóng BHXH, BHYT, số NLĐ được tham gia tổ chức công đoàn, đoàn thể…

Trách nhiệm đảm bảo lợi ích gồm: số những điều khoản đảm bảo lợi ích cho NLĐ, số NLĐ tham gia khám sức khỏe định kỳ, tỷ lệ mức lương khó khăn được trả tỷ lệ phụ cấp, trợ cấp trả cao hơn quy định…

Tiêu chuẩn định tính thẩm định định tính

Trách nhiệm đảm bảo quyền với những tiêu chuẩn định tính với thể kể tới: nhận thức về thành lập công đoàn hạ tầng, mức độ hài lòng về hội nghị NLĐ hàng năm…

Trách nhiệm đảm bảo lợi ích: nhận thức về những điều khoản đảm bảo lợi ích cho NLĐ, mức độ tạo điều kiện thuận lợi để NLĐ kết thúc HĐLĐ, nhận thức về tính  tự nguyện trong thời kì làm thêm, mức độ khuyến khích, tạo điều kiện để NLĐ tham gia hoạt động tuyên truyền về ATVSLĐ, mức độ hài lòng những hoạt động văn hóa và thể thao của NLĐ, nhận thức về tạo điều kiện cho Công đoàn hoạt động, nhận thức về tham khảo với Công đoàn để đảm bảo lợi ích cho NLĐ, nhận thức về TƯLĐTT với những điều khoản và điều kiện tốt hơn quy định của PLLĐ…

Đối với những DN cho dù là tiêu chuẩn định tính hay định lượng thì việc xác định những tiêu chuẩn thẩm định cần phải cập nhật thích hợp với mục tiêu và nội dung thực hiện TNXH đối với NLĐ đã đề ra.

Đo lường những kết quả chủ yếu của thực hiện TNXH đối với NLĐ

Đo lường thực hiện TNXH đối với NLĐ là bước quan yếu nhất trong khâu thẩm định để sớm thấy được kết quả thực hiện. Dựa trên những tiêu chuẩn thẩm định đã xác định, định kì DN phải đo lường những kết quả chủ yếu của thực hiện TNXH đối với NLĐ. Theo Phạm Vũ Luận (1995): “Việc đo lường kết quả hoạt động kiểm soát với thể được thể hiện bằng cách quan sát dữ kiện, sử dụng tín hiệu báo trước, quan sát trực tiếp, xúc tiếp tư nhân hay dự đoán tiết kiệm”. Lúc đó, đo lường sử dụng những phương pháp:

Phương pháp phân tích dữ liệu thống kê: dựa vào những dữ liệu trong hồ sơ và thông tin trong: báo cáo thường niên, báo cáo phát triển vững bền, HĐLĐ, bảng chấm công, bảng lương để thẩm định TNXH đối với NLĐ. Việc đo lường kết quả phải được tiến hành định kỳ đều đặn (tháng, quý, năm). Cần thống nhất những đơn vị sử dụng trong đo lường kết quả, những quy tắc sử dụng trong hệ thống thông tin đo lường kết quả, những dụng cụ đo lường. Ko nên thay đổi người đo lường kết quả trong một chu kỳ, nếu cần những giai đoạn khác nhau phải với sự kế thừa.

Phương pháp đo lường kết quả bằng việc sử dụng những tín hiệu báo trước : phải dự đoán trước và nhanh chóng nhận mặt những báo hiệu, những trục trặc của TNXH đối với NLĐ. Ví dụ: số lượng NLĐ tham gia tổ chức công đoàn, đoàn thể còn khá ít hay việc tổ chức hội nghị NLĐ hàng năm còn chưa hiệu quả để thấy được thực hiện TNXH đối với NLĐ chưa đạt kết quả tốt. Những “vướng mắc” mà những tín hiệu cung ứng cho ta biết nguyên nhân của vấn đề đó.

Phương pháp đo lường kết quả bằng việc quan sát trực tiếp và xúc tiếp tư nhân: cho phép DN nhanh chóng nắm được tình hình thực tế về TNXH đối với NLĐ và cảm nhận được những vấn đề còn “tiềm tàng” ở dạng khả năng. Lúc xúc tiếp trực tiếp với NLĐ giúp người đo lường kết quả với dòng nhìn toàn diện về toàn bộ công việc của họ và rà soát kết quả thu được từ hệ thống đo lường kết quả.

Kế bên những phương pháp đo đã nêu, hiện nay những DN thường kết hợp với những phương pháp sử dụng thiết bị hiện đại để theo dõi và đo lường kết quả thực hiện với thể kể tới: hệ thống thẻ từ, hệ thống digital camera theo dõi, máy soi… Sự kết hợp này đã làm cho kết quả đo lường kết quả được cập nhật, chuẩn xác và hệ thống hơn.

Sau lúc đo lường kết quả thực hiện TNXH của DN đối với NLĐ cần tìm ra nguồn cơn dẫn tới những sai lệch đó là do đâu? Mang thể là nguyên nhân khách quan hay chủ quan từ đó với những hành động khắc phục và ngăn ngừa cập thời.

Thực hiện hành động khắc phục và ngăn ngừa

Từ những phát hiện những sai lệch trong thực hiện TNXH đối với NLĐ so với tiêu chuẩn và nguyên nhân của những sai lệch đó, DN cần tiến hành đưa ra quyết định khắc phục và ngăn ngừa cần thiết. Trong bước này DN cần quyết định điều chỉnh nhanh. Vì nếu ko, hiệu quả của hành động điều chỉnh sẽ giảm, thậm chí trở thành lỗi thời và với “liều lượng điều chỉnh” thích hợp. Hành động điều chỉnh gồm:

Thứ nhất, điều chỉnh mục tiêu thực hiện TNXH đối với NLĐ (gồm mục tiêu tổng thể, mục tiêu thực hiện TNXH với NLĐ…) dự kiến nếu quá trình thẩm định phát hiện ra những vấn đề cho phép kết luận những mục tiêu là chưa đầy đủ, chưa thích hợp cần bổ sung, hoàn chỉnh cho thích hợp với tình hình thực tế.

Thứ hai, điều chỉnh chương trình hành động. Kết quả đánh với thể cho thấy cần điều chỉnh tổ chức hội nghị NLĐ hiệu quả, NLĐ được tham gia Công đoàn. Nhưng một số chương trình đòi hỏi phải với sự đầu tư về kinh phí, nguồn lực nên đòi hỏi về thời kì như đảm bảo số giờ làm thêm theo tháng, năm theo đúng PLLĐ, trả mức lương khó khăn, thỏa ước lao động tập thể với những điều khoản tốt hơn Luật.

Thứ ba, ko hành động gì cả. Ở đây ko nói tới hành vi vô trách nhiệm, ỷ lại thụ động của người quản trị. Trong một số trường hợp, vấn đề xuất hiện rồi    tự nó “mất đi” và được khắc phục ở một giai đoạn khác trong quá trình kinh doanh của DN. Đơn cử như là chương trình tăng lương định kỳ cho NLĐ. Trên thực tế  một số DN đã trả mức lương cao hơn luật quy định và khó khăn. Lúc tăng lương định kỳ mà DN lại đang vướng mắc, khủng hoảng về tài chính thì DN ko thể thực thi được. Vì thế, ko làm gì cả, chỉ chờ đợi lúc DN kinh doanh “khởi sắc” hay tài chính dồi dào DN sẽ với những giải pháp điều chỉnh hợp lý.

Thực hiện hành động khắc phục và ngăn ngừa điều quan yếu là phải nhận mặt chuẩn xác lúc nào, ở trường hợp nào thì vận dụng giải pháp này. Ở đây ko với đáp số chung cho mọi trường hợp thực hiện TNXH đối với NLĐ.

Rate this post

Bình luận