Dấu hiệu hình thành các điều kiện và lộ trình áp dụng giải pháp

Với thể nói rằng, quá trình phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam đã tới thời khắc hoàn thiện và bắt kịp với những nước phát triển trong khu vực và toàn cầu sắp hai thập kỷ hình thành và phát triển, sở hữu thể tổng quát những tín hiệu cho sự phát triển vững bền thị trường chứng khoán Việt Nam như sau:

– Quyết tâm của hệ thống chính trị trong việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam theo hướng thị trường và hiện đại ngang với những nước phát triển trong khu vực, thể hiện qua những văn bản chỉ đạo quyết liệt;

– Môi trường kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, lạm phát được kiểm soát tốt, tỷ giá hối đoái ổn định, tăng trưởng kinh tế ở mức cao .

– Hệ thống pháp lý đang dần hoàn thiện, thích hợp hơn với những chuẩn mực quốc tế;

– Hệ thống thị trường đang dần hoạt động theo nguyên tắc thị trường. Hội nhập sâu với khu vực và toàn cầu thông qua những hiệp nghị kinh tế; những thông tin thị trường được sáng tỏ hơn và chính sự sáng tỏ này đã làm cho thông tin trở nên rõ ràng và xác thực hơn;

– Thị trường chứng khoán phái sinh được hình thành, góp phần phổ thông hàng hóa trên thị trường chứng khoán;

– Tiến trình cổ phần hóa những doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh quyết liệt, như một điều kiện quan yếu cho phát triển vững bền của nền kinh tế;

– Ngày càng hoàn thiện hơn những chính sách khuyến khích, thu hút những nhà đầu tư trên thị trường tài chính;

– Cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật trong vận hành và giám sát ngày càng hoàn thiện, hàng ngũ quản lý được quan tâm tăng trình độ, v.v…

Nhìn chung, những giải pháp ứng dụng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cần điều chỉnh theo những nguyên tắc:

– Thích hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế – xã hội;

– Tuân thủ theo chuẩn mực quốc tế;

– Tập trung hoàn thiện cấu trúc thị trường;

– Tính công khai, sáng tỏ của thị trường;

– Xúc tiến thị trường tài chính phát triển.

Trên hạ tầng những phân tích trong nghiên cứu, tác giả đề xuất lộ trình ứng dụng giải pháp trong giai đoạn 2015-2020 như sau:

Thứ nhất, định hướng quy mô vốn hóa thị trường tới năm 2020 quy mô khoảng 75-80% GDP; hoàn thiện tái cấu trúc thị trường chứng khoán Việt nam và sửa đổi, bổ sung một số bất cập còn tồn tại trong Luật Chứng khoán, gồm: i) quy định tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp cổ phần hóa; ii) quyền hạn của Ủy ban chứng khoán nhà nước; iii) quy định những hành vi bị cấm trong đầu tư chứng khoán; iv) bổ sung thêm cho đầy đủ ngoài những hình thức chào bán ra sức chúng đang thực hiện theo Nghị định số 58/2012/NĐ-CP của Chính phủ; v) bổ sung những điều kiện chào bán lần đầu (IPO), chào bán thêm và chào bán trái phiếu ra sức chúng; vi) bổ sung những điều kiện của doanh nghiệp đại chúng theo kinh nghiệm của những nước tiên tiến; vii)  Bổ sung thêm những loai chứng khoán được tổ chức giao dịch trên SGDCK bao gồm cổ phiếu của DNNN cổ phần hóa, chứng khoán của doanh nghiệp khác chưa đủ điều kiện niêm yết và những loại chứng khoán khác.

Thứ hai, Tái cấu trúc thị trường trên hạ tầng thông lệ quốc tế và điều kiện Việt Nam theo hướng: từng bước cổ phần hóa Sở giao dịch chứng khoán, nhằm đảm bảo sự thống nhất trong hoạt động, thuận tiện trong việc tăng năng lực quản trị và thu hút vốn từ những thành viên thị trường; bổ sung những điều kiện niêm yết của doanh nghiệp đại chúng trên thị trường chứng khoán.

Thứ ba, định hướng rõ ràng về sự tham gia của những nhà đầu tư tổ chức, nhất là những tổ chức sở hữu quy mô vốn to như nhà băng, doanh nghiệp bảo hiểm. Đồng thời, thu hút những nhà đầu tư tư nhân đầu tư vốn thông qua những quỹ đầu tư đại chúng với phổ thông loại hình.

Thứ tư, phổ thông hóa những loại hình quỹ đầu tư như quỹ đóng, quỹ mở, quỹ mạo hiểm; cho phép thành lập những tổ chức phụ trợ, nhất là những tổ chức định mức tín nhiệm.

Thứ năm, tiếp tục ban hành, hoàn chỉnh, sửa đổi những văn bản hướng dẫn, quy định về hoạt động, nghiệp vụ trong ngành đầu tư chứng khoán và phát triển thị trường chứng khoán.

Rate this post

Bình luận