Thị trường và năng lực chiếm lĩnh thị trường được giám định là tiêu chí quan yếu giám định NLCT của những doanh nghiệp. Trong khi khả năng chiếm lĩnh thị trường tốt, những doanh nghiệp sẽ dành được thị trường cao và nhờ đó tỷ suất giá bán sản xuất, kinh doanh thấp và lợi nhuận mang lại cao hơn. Bởi vậy, trong giai đoạn 2005- 2017, những doanh nghiệp Hải Phòng quan tâm chú trọng khả năng chiếm lĩnh thị trường. Cụ thể: Trên thị trường nội địa: những doanh nghiệp như: Đơn vị cổ phần Nhựa TNTP,
sơn Hải Phòng, Xi măng Vicem HP, Xi măng Chinfon, Bột giặt Vico, Đơn vị thép VPS, Vinaustell, thép Úc, đóng tàu Sông Cấm, cáp điện LS Vina… chiếm hơn 20- 30% thị trường tiêu thụ sản phẩm trên khu vực cả nước. Đơn vị Đơn vị cổ phần Nhựa TNTP hiện chiếm giữ thị trường tương đối cao trên 30% thị trường cả nước và 60% thị trường những tỉnh phía Bắc, một số mặt hàng ở thế áp đảo như ống nhựa những loại, van, cút hoặc đơn vị Cổ phần Sơn Hải Phòng cũng từng bước chiếm thị trường to trong mặt hàng sơn tàu biển của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp nhiều hóa sản phẩm, mở rộng mặt hàng để tăng thị trường như: Đơn vị CP Sơn Hải Phòng, đơn vị CP Nhựa Thiếu niên Tiền Phong, Đóng tàu Sông Cấm…)
Riêng trên thị trường Hải Phòng, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu nhà sản xuất tiêu sử dụng của thành phường năm 2005 là 9.363,8 tỷ đồng, năm 2010 là 34.503 tỷ đồng, tăng bình quân 23,7%/năm trong giai đoạn 2006-2010. Thời kỳ 2012-2017 tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu nhà sản xuất tiêu sử dụng của Hải Phòng đã tăng trung bình 18,52%/năm và đạt 80.673 tỷ đồng năm 2015 và năm 2016 đạt 91.192 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ khả năng chiếm lĩnh thị trường và sức khó khăn những sản phẩm, hàng hóa của cac doanh nghiệp Hải Phòng được nâng lên.
Trên thị trường quốc tế: Hoạt động xuất khẩu của Hải Phòng năm 2005 đạt chưa tới 1tỷ USD, năm 2010 đạt 2,024 tỷ USD, năm 2916 đã đạt 5,161 tỷ USD và năm 2017 đạt 6,524 tỷ USD tăng 22,46% so với 2016. Trong đó, tổng trị giá xuất khẩu nhóm sản phẩm dệt might và giày dép đã vượt ngưỡng 2 tỷ USD chiếm tỷ trọng hơn 40%; nhóm dây điện và cáp điện đạt trên 600 triệu USD chiếm sắp 12%; nhóm hàng điện tử cũng đã đạt mốc 300 triệu USD và sở hữu khả năng tăng nhanh vào những năm tói lúc những dự án của LGE và LG Dipsplay vào hoạt động đồng bộ. Mặt hàng nhựa, cao su (đặc trưng lốp ô tô của Bridgestone) đã vượt ngưỡng 10% tỷ trọng hàng xuất khẩu. Điều đó khẳng định, nhiều mặt hàng, sản phẩm của những doanh nghiệp Hải Phòng từng bước sở hữu sức khó khăn tốt trên thị trường quốc tế.
Về thị trường xuất khẩu, nếu như năm 2010 doanh nghiệp Hải Phòng sở hữu trao đổi hàng hóa với hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ thì tới 2016 đã sở hữu mặt trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ. Số thị trường đạt kim ngạch trên 200 triệu USD của xuất khẩu năm 2005 chưa sở hữu thì đã tăng lên 3 quốc gia năm 2010 và 6 quốc gia vào năm 2016. Năm 2016, Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của những thị trường trên 1 tỷ USD chiếm là Hàn Quốc và Nhật Bản đã chiếm sắp 42% kim ngạch xuất khẩu của Hải Phòng, nếu tính cả EU và Hoa Kỳ thì kim ngạch của nhóm đã chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của DN thành phường. Cụ thể: Kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ đạt 578 tr USD, EU là 558 tr USD, Nhật Bản đạt 1,419 tỷ USD và Hàn Quốc đạt 1,122 tỷ USD Điều quan yếu cần khẳng định hàng hóa, sản phẩm của Hải Phòng đã tăng nhanh và chiếm tỷ trọng to ở những thị trường to, khó tính.
Thị trường và năng lực chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp gắn liền và phản ánh thông qua NLCT của sản phẩm. Sản xuất ra sản phẩm sở hữu khả năng khó khăn cao là cách thức để DN chiếm lĩnh thị trường. NLCT của sản phẩm thể hiện qua giá cả, chất lượng, thương hiệu… Thực tế về NLCT của sản phẩm của những DN Hải Phòng cho thấy giá thành sản phẩm của những DN được cải thiện rất nhiều, tuy nhiên những sản phẩm sở hữu thể khó khăn được của Hải Phòng thường nhờ vào lợi thế sử dụng tài nguyên hoặc lợi thế sử dụng lao động rẻ, giá bán vận tải thấp nhờ lợi thế về địa kinh tế của Hải Phòng. Nếu như năm 2010 Hải Phòng xuất khẩu sang thị trường EU những nhóm hàng chính là: hàng dệt might, giày dép, thủy sản thì tới năm 2017 đã sở hữu sự sở hữu mặt của máy móc thiết bị điện tử, điện lạnh, máy in, máy photocopy, điện thoại, vô tuyến truyền hình, lốp xe ô tô. Về giá cả hàng hóa của doanh nghiệp Hải Phòng cho thấy thấp hơn nhiều so với giá cả hàng hóa của những nước.
Về chất lượng sản phẩm: hàng hóa của Hải Phòng trong những năm sắp đây được quan tâm và cải thiện đáng kể, chủng loại hàng hóa nhiều, mẫu mã nhiều và đẹp. Nhiều sản phẩm dành được chỗ đứng ko chỉ trên thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc mặc cả trên thị trường EU và Hoa Kỳ. Điều đó chứng tỏ những DN đã khởi đầu quan tâm tới việc tăng NLCT của sản phẩm. Tuy nhiên, những sản phẩm tương tự chưa nhiều. Trên thị trường toàn cầu, những sản phẩm được giám định sở hữu chất lượng cao thì hầu hết là sản phẩm thô sở hữu lợi thế về tự nhiên hay giá lao động rẻ như dệt might, da giầy. Tóm lại, chất lượng hàng hóa của Hải Phòng trong giai đoạn 2005-2017 đã được cải thiện đáng kể (Sơn tàu biển, ống nhựa và phụ kiện, Bột giặt, lốp xe ô tô, nước mắm, hải sản.). Tuy nhiên, tính ổn định và khó khăn chưa cao, những DN vẫn cần phải nỗ lực hơn nữa để tăng chất lượng làm hạ tầng để tăng năng lực khó khăn của doanh nghiệp.
Theo Bảng xếp loại 500 doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam, nếu như năm 2007 (lần đầu xếp hạng) Hải Phòng sở hữu chưa tới 10 DN nằm trong tốp 500 và cao nhất là Đơn vị Xăng dầu khu vực 3 cũng đứng thứ 108, phần to những doanh nghiệp còn lại đều xếp hạng sau 150 và 50% số doanh nghiệp đó là DN sở hữu vốn đầu tư nước ngoài thì tới năm 2010 số Doanh nghiệp trong tốp 500 đã là 14 doanh nghiệp. Đặc thù, tới năm 2017, tuy số doanh nghiệp của Hải Phòng nằm trong tốp 500 tăng ko đáng kể, nhưng đã xuất hiện nhiều doanh nghiệp tư nhân đã sở hữu mặt trong danh sách và thứ hạng được tăng cao hơn so với những năm trước (Đơn vị Samnec, XNK Quảng Bình, CTCP Nhựa TNTP, CTCP Sơn Hải Phòng.) và số doanh nghiệp trong nước đã chiến tỷ trọng sắp 70% trong số những doanh nghiệp được xếp hạng. Sở hữu những doanh nghiệp nhiều năm đứng trong tốp 500 như Xi măng Chìnfon, CTCP Nhựa TNTP, Cáp điện LS- Vina, Nhựa Phú Lâm và cũng đã sở hữu những doanh nghiệp vào high 100 doanh nghiệp hàng đầu như Xi măng Chinfon. Điều đặc trưng quan yếu là trong danh sách 500 doanh nghiệp tư nhân sở hữu lợi nhuận cao, xếp hạng 2017 đã sở hữu 15 doanh nghiệp trên khu vực Hải Phòng sở hữu mặt.