Là những quy định của nhà băng trung ương để tăng hoặc giảm mức cung tiền nhằm tác động tới tín dụng trong nền kinh tế, giúp chính phủ ổn định phát triển nền kinh tế. Chính sách tiền tệ sử dụng hai dụng cụ chủ yếu đó là lượng cung tiền (MS) và lãi suất (i) và cả hai yếu tố này đều sở hữu tác động đầu tư chứng khoán trên góc độ giá chứng khoán và lợi nhuận chứng khoán.
a) Tác động của lượng cung tiền (M2)
Lúc nhà băng trung ương thay đổi lượng cung về tiền, lãi suất sẽ tăng hoặc giảm tác động tới đầu tư tư nhân, tác động tới tổng cầu và sản lượng. Nghiên cứu của Friedman và Schwartz (1963) đã đưa ra lời giảng giải trước tiên về mối quan hệ giữa lượng cung tiền và thu nhập chứng khoán. Theo đó một sự gia tăng trong cung tiền sẽ làm gia tăng thanh khoản và tín dụng cho nhà đầu tư cổ phiếu dẫn tới giá những chứng khoán cao hơn [43];
Mối quan hệ giữa lượng cung tiền và giá cổ phiếu đã được xem xét qua rất nhiều nghiên cứu. Beryl Sprinkel (1964) đã tiến hành so sánh điểm quay đầu của chỉ số chứng khoán với điểm thay đổi của tỷ lệ tăng trưởng cung tiền và kết luận thị trường xuống giá (bear market) được dự đoán là khoảng 15 tháng sau mỗi đỉnh của mức tăng cung tiền và thị trường lên giá (bull market) được dự đoán là sau 2 tháng sau mỗi vùng lõm của mức cung tiền đạt tới [33].
KE.Homa and Jaffe (1971) ước tính mối quan hệ giữa lượng cung tiền và và chỉ số giá chứng khoán phổ thông, tìm kiếm dụng cụ dự đoán trong việc thực hiện những chiến lược đầu tư. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng giá của bất kỳ cổ phiếu phổ thông đều được xác định bởi 3 biến số: mức độ và tỷ lệ tăng cổ tức, tỷ lệ lãi suất phi rủi ro (lãi suất trái phiếu Chính phủ) và thặng dự rủi ro, trong đó tỷ lệ lãi suất phi rủi ro là một hàm số của biến số lượng cung tiền. Nghiên cứu kết luận: mức giá chứng khoán bình quân sở hữu quan hệ tỷ lệ thuận với lượng cung tiền [58].
Michael J. Hamburger and Levis A.Kochin (1972) khởi đầu với mô phỏng thẩm định chuẩn và mức giá hiện tại và tỷ lệ lãi suất của trái phiếu doanh nghiệp tăng thêm để xác định mức độ tác động trực tiếp và gián tiếp của lượng cung tiền lên TTCK. Nghiên cứu đưa ra kết luận: những thay đổi về tăng trưởng tiền tệ đã sở hữu những tác động khác nhau tới TTCK [51].
Pesando (1974) tìm ra một số vấn đề trong kết quả nghiên cứu về lý thuyết và thực nghiệm của mô phỏng do Hamburger-Kochin and Homa-Jaffe sử dụng, kết luận rằng việc những mô phỏng trên ko sở hữu khả năng tổng quát hóa và dự đoán xác thực giá cổ phiếu là chứng cớ phản biện lại mối quan hệ kết cấu vững bền giữa lượng cung tiền và giá cổ phiếu trên TTCK [69].
Gupta (1974) vận dụng việc tiếp cận bằng phương pháp xác suất để dự đoán điểm quay đầu của giá chứng khoán trong một giai đoạn cụ thể được xác định trước. Sử dụng chuỗi số liệu thời kì theo tháng trong giai đoạn 23 năm và những điểm quay đầu quan sát được của lượng cung tiền, xác định sở hữu 59% số đỉnh của giá chứng khoán sở hữu thể được dự đoán xác thực [50].
Kraft J. và Kraft A. (1977) sử dụng phương pháp phân tích chuỗi thời kì và cho thấy ko sở hữu mối quan hệ tương tác giữa lượng cung tiền và giá cổ phiếu [61]. Pearce and Roley (1985) xem xét tác động của thông tin về lượng cung tiền lên giá chứng khoán, tìm ra mối quan hệ ngược chiều giữa mức tăng lượng cung tiền và giá chứng khoán
Pierre Danilo and Leiva-Leon (2016) cho rằng sự bất thần thắt chặt chính sách tiền tệ sẽ làm sụt giảm lợi nhuận cổ phiếu trong hầu hết những ngành công nghiệp và sở hữu sự ko đồng nhất giữa những ngành, những doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước sở hữu phản ứng mạnh hơn tiêu cực với chính sách tiền tệ [70].
Tương tự, lúc lượng cung tiền mở rộng sẽ dẫn tới một sự gia tăng trong tiêu tiêu dùng hàng hóa cũng như làm gia tăng việc sử dụng những tài sản chứng khoán, tức là việc đầu tư chứng khoán được xúc tiến. Chính sách mở rộng tiền tệ làm giảm lãi suất của nền kinh tế, làm giảm lãi suất chiết khấu của chứng khoán qua đó làm tăng giá kỳ vọng và tăng thu nhập từ đầu tư chứng khoán.
b) Tác động của lãi suất
Kênh thứ hai thông qua tác động của chính sách tiền tệ tới tài sản của người dân. Mô phỏng của Modigliani (1971) về tiêu tiêu dùng, lãi suất tăng sẽ làm khuyến mãi cổ phiếu và trái phiếu và tác động xấu tới tài sản của người dân, từ đó dẫn tới tiêu tiêu dùng sút giảm và cuối cùng là tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Những nghiên cứu thực nghiệm đều đưa ra những chứng cớ thuyết phục về tương quan nghịch giữa lãi suất cơ bản và thị trường chứng khoán. Rigobon và Sack (2004) phát hiện rằng, thị trường chứng khoán Mỹ sụt giảm nếu Fed tăng lãi suất cao hơn kỳ vọng thị trường [73]. Bernanke và Kuttner (2005) phát hiện rằng nếu Fed cắt giảm lãi suất cao hơn kỳ vọng thị trường 0,25%, thì những chỉ số chứng khoán sẽ tăng 1%. Ngoài ra, nếu Fed nâng lãi suất cao hơn kỳ vọng, thị trường chứng khoán Mỹ sẽ biến động mạnh hơn [28].
Hilde C. Bjornland (2004) cho rằng nếu sở hữu cú sốc về lãi suất sẽ làm thay đổi tới giá cổ phiếu và trái lại [29]. Ehrmann và Fratzscher (2004) xác định giữa những ngành, những doanh nghiệp sở hữu sự ko đồng nhất về sự tác động của chính sách tiền tệ tới lợi nhuận của cổ phiếu [39].
MJ Flannery, CM James (1984) khảo sát mối quan hệ giữa sự biến động của tỷ lệ lãi suất của lợi nhuận cổ phiếu phổ thông và cấu thành kỳ hạn của những hợp đồng danh nghĩa của doanh nghiệp. Sử dụng số liệu nghiên cứu của những nhà băng thương nghiệp đang hoạt động mạnh và những khoản tiết kiệm lũy kế, lợi nhuận của cổ phiếu phổ thông được xác định sở hữu tương quan với sự thay đổi của tỷ lệ lãi suất. Sự biến động của lợi nhuận cổ phiếu và sự thay đổi tỷ lệ lãi suất sở hữu quan hệ đồng biến đối với quy mô khác nhau về kỳ hạn giữa tài sản nợ và tài sản sở hữu của doanh nghiệp [66].
Chủ đề mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ lệ lãi suất đã nhận được nhiều sự quan tâm nghiên cứu của những chuyên gia. Fama (1981) lập luận rằng lạm phát mong đợi sở hữu mối tương quan ngược chiều với thu nhập đầu tư chứng khoán. Chính vì vậy, thu nhập chứng khoán sẽ tương quan ngược chiều với lạm phát mong đợi mà đại diện là tỷ lệ lãi suất của những khoản đầu tư ngắn hạn. Mặt khác, tác động cả tỷ lệ lãi suất dài hạn lên giá chứng khoán bắt nguồn trực tiếp từ mô phỏng trị giá hiện tại thông qua tác động lên tỷ lệ lãi suất dài hạn trên tỷ lệ chiết khấu [38].
Ko sử dụng đồng thời cả tỷ lệ lãi suất dài hạn và ngắn hạn, Campbell (1987) phân tích mối quan hệ giữa biên độ mức sinh lời và lợi nhuận chứng khoán, với lập luận rằng với những biến số đã được sủ dụng để dự đoán mức lợi nhuận thặng dư trên cấu trúc lãi suất cũng sở hữu thể dự đoán được lợi nhuận đầu tư chứng khoán. Kết quả nghiên cứu này củng cố thêm tính hiệu quả của cấu trúc kỳ hạn của lãi suất trong việc dự đoán lợi nhuận thặng dự chứng khoán trên thị trường chứng khoán Mỹ [34].
Zhou (1996) cũng tiến hành nghiên cứu mối quan hệ giữa tỷ lệ lãi suất và giá chứng khoán sử dụng phân tích hồi quy. Kết quả cho thấy tỷ lệ lãi suất sở hữu tác động rất quan yếu đối với lợi nhuận chứng khoán, đặc thù trong dài hạn, nhưng giả thuyết lợi nhuận chứng khoán kỳ vọng sở hữu sự vận động 1-1 với tỷ lệ lãi suất ban sơ bị loại bỏ. Kết quả nghiên cứu của Zhou cũng chỉ ra rằng tỷ lệ lãi suất cũng đóng vai trò quan trong trong việc lý giải sự biến động của tỷ lệ phân chia cổ tức trên giá chứng khoán và gợi ý rằng biến động to về thị trường chứng khoán sở hữu liên quan mật thiết tới mức sinh lời của những trái phiếu kỳ hạn dài, sở hữu thể dự trù được từ tỷ lệ chiết khấu của trái phiếu [80].
Lee (1997) sử dụng phân tích hồi quy đối với số liệu trong 3 năm để phân tích về mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và tỷ lệ lãi suất ngắn hạn. Cho thấy mối quan hệ này ko liên tục và vững bền theo thời kì [62].
Chính sách tiền tệ thắt chặt sở hữu thể được tiến hành thông qua việc tăng lãi suất cơ bản sở hữu tác động ngược chiều tới thị trường chứng khoán thể hiện qua những lý do sau: i) lãi suất cơ bản tăng cao dẫn tới việc tăng lãi suất thị trường được sử dụng để chiết khấu dòng tiền, điều này dẫn tới giá chứng khoán giảm đi trong những mô phỏng định giá; ii) làm cho những chứng khoán thu nhập nhất mực trở thành một lựa chọn quyến rũ hơn làm giảm thanh khoản vào cổ phiếu; iii) làm giảm xu hướng vay mượn để đầu tư vào chứng khoán và làm tăng mức giá vận hành doanh nghiệp (DN) do đó tác động tới lợi nhuận doanh nghiệp.
Nghiên cứu của Gilchrist S. và Leahy JV. (1996) cho thấy tăng lãi suất gây ra bởi chính sách tiền tệ thắt chặt làm giảm dòng tiền tài doanh nghiệp và từ đó sở hữu tác động tới khả năng thanh khoản của chứng khoán trên thị trường, kém quyến rũ nhà đầu tư [48].