Hoạt động sản xuất đóng vai trò then chốt trong việc duy trì hoạt động của doanh nghiệp. Ở góc độ doanh nghiệp nghiên cứu về sản xuất xanh là rất cần thiết trong việc xúc tiến TTX trong doanh nghiệp. Những nghiên cứu về sản xuất xanh chia thành hai nhóm: những nghiên cứu về khái niệm sản xuất xanh và những nghiên cứu về những dụng cụ và mô phỏng phân tích khác nhau để xác định sản xuất xanh ở các đơn vị quản lý độ khác nhau [70].
Nhóm nghiên cứu thứ nhất, kể tới tầm quan yếu của năng suất xanh là dụng cụ khó khăn và xem năng suất xanh là tất cả những hoạt động quyết tâm để giảm những chất thải. Năng suất xanh tiềm năng sở hữu thể đạt được trong kết quả sản xuất [71]. Sản xuất vững bền và xanh là mô phỏng tương lai với mô phỏng kinh doanh dựa trên thiết kế môi trường sử dụng khoa học nano/bio/nguyên vật liệu (NVL) sẽ đáp ứng nhu cầu của khách hàng về những sản phẩm sinh thái thân thiện [72]. Wang L & Lin L (2007) [73] đề xuất khung ba trụ cột để giám sát và phân loại thông tin vững bền ở cấp doanh nghiệp thông qua hệ thống chỉ số vững bền. Khung giá tiền xã hội và môi trường cấp doanh nghiệp và những trị giá trong những hoạt động kinh tế bổ trợ những quyết định quản lý. Phương pháp đề xuất này giúp người ra quyết định đưa ra những kế hoạch sản xuất xanh. Burke S & Gaughran W. F (2007) [74] cũng đưa ra khung khác về vững bền để nhận dạng sản xuất xanh. Khung được dựa trên những nghiên cứu của họ về những nhà sản xuất đạt chứng chỉ ISO 14001 thuộc doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Nhóm nghiên cứu thứ hai gồm những nghiên cứu của Melnyk và cùng sự đề xuất dụng cụ MRP cho phép lập kế hoạch nhu cầu về NVL (Materials Necessities Planning). Phương tiện này là một hệ thống lập kế hoạch yêu cầu về NVL. MRP xanh giải bài toán tối thiểu hóa tác động môi trường trong quản lý chất thải công nghiệp, bằng cách xác định kế hoạch tác nghiệp tiềm năng và những vấn đề liên quan tới môi trường [75]. Fiksel Joseph R (1996) [76]tập hợp những dụng cụ phân tích khác nhau xuất hiện từ nghiên cứu thiết kế sản phẩm/quá trình đối với sản xuất xanh [77]. Những dụng cụ sử dụng bao gồm phân tích vòng đời (LCA), thiết kế môi trường (DfE), những phương pháp nhận dạng và phân tích rủi ro. Mô phỏng khác với phương pháp phân tích mạng lưới được thực hiện để phân tích tiềm năng của mỗi tác động tạo ra bởi những loại chất thải khác nhau trong quá trình sản xuất [77]. Ahmed M. Deif (2011) [70] đưa ra mô phỏng hệ thống sản xuất xanh. Mô phỏng trình bày kế hoạch và những hoạt động kiểm soát cần thiết để chuyển từ sản xuất ít xanh thành xanh hơn và hiệu quả sinh thái hơn. Mục đích của mô phỏng hệ thống sản xuất xanh là hiểu rõ hơn sản xuất xanh bằng cách: đưa ra những hoạt động cần thiết để giám định cấp độ xanh hiện tại của hệ thống sản xuất, phác thảo kế hoạch dịch chuyển xanh và những dụng cụ và hệ đo lường kiểm soát cần thiết cho quá trình dịch chuyển, mô tả làm thế nào để duy trì những cải tiến và xây dựng những cải tiến để duy trình những hệ thống hiệu quả sinh thái hơn. Tim Baines & cùng sự (2012) [58] kể tới: những dạng sản xuất xanh, hướng sản xuất xanh doanh nghiệp sở hữu thể theo đuổi, vai trò của sản xuất xanh trong chiến lược khó khăn, những thách thức lúc thực hiện sản xuất xanh. Maruthi G. Dilip & Rashmi R (2015) xem sản xuất xanh là dụng cụ cải tiến và đưa ra những kỹ thuật đạt được sản xuất xanh bao gồm: sản xuất tinh gọn (Lean Manufacturing) trong đó kể tới một số phương pháp như Jit, Kanban, 5S, Poka-yoke, và hệ thống quản lý ISO 14000 & 14001. Nukman Y & cùng sự (2017) [79] sử dụng kỹ thuật chỉ số sản xuất xanh (GMI) để xác định hiệu quả của quá trình sản xuất xanh về mặt kinh tế và môi trường và thích hợp trong bất kỳ quá trình sản xuất công nghiệp nào. Ngoài ra, lý thuyết tập mờ được sử dụng để xác định một nhân tố trọng số mờ của mỗi loại tác động phân bổ tới toàn bộ tác động môi trường tiềm năng trên hệ sinh thái. Phương pháp toán mờ được sử để phân tích và lựa chọn những hướng ưu tiên sản xuất xanh sử dụng phương pháp ra quyết định đa tiêu chuẩn (MCDM) và phương pháp TOPSIS [80] [81]. Để nhận dạng sản xuất xanh trên cấp độ máy móc, Krishnan N & cùng sự (2004) [82] đề xuất dụng cụ phân tích những hệ thống trị giá môi trường để giám định kết quả môi trường của quá trình bán dẫn. Phương tiện này phát triển việc giám định môi trường thông qua phương pháp phân tích từ “dưới lên trên”, lắp ráp những mô phỏng môi trường thiết bị để mô tả một hệ thống.
Động lực để doanh nghiệp triển khai sản xuất xanh chính là những lợi ích mà sản xuất xanh sở hữu thể mang lại cho doanh nghiệp: