Luật pháp, chính sách về di chuyển lao động có kỹ năng

Xúc tiến việc làm ngoài nước cho lao động và chuyên gia (lao động mang kỹ năng) Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài là chủ trương to của Đảng và Nhà nước. Chủ trương này đã được khẳng định từ Chỉ thị 41-CT/TW của Bộ Chính trị (1998) và tiếp tục được nhấn mạnh tại Chỉ thị 16-CT/TW ngày 8/5/2012 của Ban Bí thư. Những Chỉ thị này đều khẳng định lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài “là một hoạt động kinh tế – xã hội, là một chiến lược quan yếu, trong tương lai… xuất khẩu lao động và chuyên gia một mặt phải đảm bảo sức khó khăn trên cơ sở vật chất tăng cường huấn luyện lực lượng lao động kỹ thuật và chuyên gia nâng dần tỉ trọng lao động xuất khẩu mang chất lượng cao trong tổng số lao động xuất khẩu” và “góp phần tạo việc làm phân công lại lao động, tăng thu nhập và nguồn thu ngoại tệ … kỹ năng lao động và tác phong làm việc của người lao động được tăng, góp phần tăng chất lượng nguồn nhân lực và quảng bá hình ảnh quốc gia, con người Việt Nam với bạn bè quốc tế, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế”.

Sắp đây nhất, một trong trong những mục tiêu cụ thể của Chương trình mục tiêu giáo dục nghề nghiệp và việc làm an toàn lao động giai đoạn 2016-2020 được phê duyệt tại Quyết định số 899/QĐ-TTg (2017) của Thủ tướng chính phủ phê [47]  là tương trợ huấn luyện trình độ cao về kỹ năng nghề, ngoại ngữ và ngành nghề đặc thù cho khoảng 8.800 lao động để đưa khoảng 6.200 người đi làm việc ở nước ngoài theo  hợp đồng.

Đặc thù Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Luật số 72) được Quốc hội phê chuẩn năm 2006 và mang hiệu lực thi hành từ tháng 7 năm 2007 [29] đã nêu rõ chính sách của Nhà nước về người lao động đi làm việc ở nước ngoài đó là “khuyến khích đưa nhiều người lao động mang trình độ chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, đưa người lao động đi làm việc ở thị trường mang thu nhập cao; khuyến khích đưa người lao động đi làm việc tại những dự án, dự án, cơ sở vật chất sản xuất kinh doanh do doanh nghiệp, tổ chức, tư nhân trúng thầu, nhận thầu, đầu tư thành lập ở nước ngoài” (Khoản 5 Điều 5).

Trải qua quá trình phát triển và theo yêu cầu của công việc quản lý người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp lý và những chính sách để quản lý về vấn đề này (Phụ lục 1). Theo đó, mang rất nhiều những chính sách liên quan đã được những cơ quan ban ngành, những địa phương ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài như huấn luyện nghề đặc thù và nghề kỹ thuật cao theo nhu cầu thị trường nước ngoài, vay vốn, tham gia khoá học bổi dưỡng tri thức miễn phí cho người lao động mang nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài, đặc trưng là đối tượng chính sách xã hội. Đặc thù Luật số 72 quy định cụ thể về việc đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài nói chung, tạo cơ sở vật chất pháp lý để giúp những cơ quan quản lý nhà nước, người lao động và doanh nghiệp nắm bắt thời cơ di chuyển lao động ra nước ngoài xúc tiến sự phát triển kinh tế – xã hội của Việt Nam. Luật đã quy định 4 hình thức đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (Điều 6), bao quát tất cả những loại hình di chuyển, bao gồm: (i) đi qua doanh nghiệp trung gian;

(ii) đi theo doanh nghiệp trúng thầu hoặc đầu tư; (iii) theo hình thức tập nghề với doanh nghiệp và (iv) theo hợp đồng tư nhân. Theo đó, nghĩa vụ và quyền lợi của các đối tác liên quan bao gồm doanh nghiệp nhà cung cấp, doanh nghiệp trực tiếp đưa người lao động đi làm cho mình ở nước ngoài hoặc cơ quan chính phủ liên quan, người lao động đã được Luật kể tới.

Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước đã được quy định cụ thể trong Luật. Theo đó, Luật đã quy định vai trò của những cơ quan mang thẩm quyền nhà nước trong việc quản lý những doanh nghiệp và người lao động để đảm bảo tuân thủ những quy định liên quan trước, trong và sau lúc người lao động đi làm việc ở nước ngoài.

Luật đã kể tới việc “dạy nghề, ngoại ngữ và bồi dưỡng tri thức cần thiết cho người lao động nhằm tạo nguồn lao động đi làm việc ở nước ngoài mang trình độ kỹ năng nghề, ngoại ngữ, tri thức pháp luật và tri thức cần thiết khác thích hợp với yêu cầu của thị trường lao động” (Điều 61)

Pháp luật và chính sách đối với người lao động quay trở về cũng đã được chú trọng trong thời kì qua. Luật 72 đã quy định việc Sở LĐTBXH tương trợ thông tin và giới thiệu việc làm cho người lao động sau lúc về nước; khuyến khích những doanh nghiệp tiếp nhận và tuyển dụng người lao động về nước vào làm việc (Điều 59)và Khuyến khích tạo việc làm và cho người lao động vướng mắc vay vốn ưu đãi theo quy định của pháp luật để tạo việc làm (Điều 60).

Luật 72 đã tạo ra phạm vi pháp lý cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài và mang những quy định về lao động mang kỹ năng, những giải pháp tăng chất lượng lao động đi, những thủ tục quản lý và bảo vệ người lao động. Tuy nhiên, mang thể thấy Luật vẫn còn mang nhiều điểm cần phải chỉnh sửa cho thích hợp với thực tiễn và với bối cảnh mới. Đặc thù liên quan tới việc thực hiện Luật, những người lao động đi làm việc theo hợp đồng tư nhân – một hình thức di chuyển phổ biến của lao động mang kỹ năng trong thời kì sắp đây – hầu như ko thực hiện những nghĩa vụ được quy định theo luật về việc đăng ký Hợp đồng tư nhân với cơ quan Nhà nước mang thẩm quyền (Điều 53). Một số những nguyên nhân của việc này là: (i) người lao động ko biết là cần phải đăng ký; (ii) hồ sơ, thủ tục đăng ký khá quấy quả do cần xác nhận của chính quyền địa phương, phải đóng thuế thu nhập theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của cả nước tiếp nhận (thuế chồng thuế), phải đóng phí bảo hiểm xã hội của cả Việt Nam và những hình thức bảo hiểm theo quy định pháp luật của nước tiếp nhận hay đóng góp vào Quỹ tương trợ việc làm ngoài nước…, trong lúc những quyền lợi mà họ nhận được cũng chỉ liên quan tới thông tin, tới những quyền lợi từ Quỹ tương trợ việc làm theo quy định… Thủ tục rườm rà, phí đóng nhiều, đi lại nhiều lần… làm cho người lao động ko muốn/trốn đăng ký. Trong lúc đó, với quy định miễn thị thực trong những nước ASEAN và sang bên nước tiếp nhận thì mới cần làm thủ tục xin giấy phép làm việc, người lao động thấy ko cần phải làm thủ tục đăng thỏa thuận tư nhân tại Việt Nam do ko mang cơ chế ràng buộc trong thủ tục xuất – nhập cảnh. Chính điều này gây khó khăn cho những nhà quản lý lao động ngoài nước trong việc giám định luồng di chuyển làm cơ sở vật chất cho việc hoạch định chính sách liên quan, đồng thời làm cho những con số thống kê của Việt Nam thường ko thống nhất/ko đủ so với nước tiếp nhận do người lao động mang thể đăng ký ở nước tiếp nhận mà ko báo cáo ở Việt Nam.

Rate this post

Bình luận