Năm 1968 Becker đưa ra lý thuyết kinh tế về tội phạm. Trên hạ tầng lý thuyết này, Allingham và Sandmo năm 1972 phát triển mô phỏng kinh tế về hành vi tuân thủ thuế. Trong mô phỏng của Allingham và Sandmo, NNT được giả thiết là với thu nhập (I) và cần phải chọn lựa báo cáo một khoản thu nhập cho cơ thuế quan làm hạ tầng tính thuế TNCN. Khoản thu nhập do NNT báo cáo
(D) sẽ được đánh thuế suất (t) và khoản thu nhập do NNT ko báo cáo sẽ ko bị đánh thuế. NNT sẽ với khả năng bị phát hiện (p) và với thể bị phạt một khoản tiền (f) vì hành vi gian dối.
NNT sẽ với hai phương án lựa chọn:
(1) NNT sẽ báo cáo khoản thu nhập thật sự của họ;
(2) NNT sẽ báo cáo một khoản thu nhập ít hơn so với khoản thu nhập thật sự của họ.
Nếu NNT chọn phương án (2), việc NNT bị phạt sẽ phụ thuộc vào việc NNT với bị rà soát bởi cơ thuế quan hay ko. Nếu NNT ko bị rà soát, NNT rõ ràng sẽ thừa hưởng lợi nhiều hơn việc lựa chọn phương án (1). Nếu NNT bị rà soát, NNT sẽ bị truy thu và bị phạt. Do đó, NNT sẽ chọn một khoản thu nhập (D) để tối đa hóa lợi ích kỳ vọng của việc trốn thuế.
Trên hạ tầng đó, Allingham và Sandmo đề nghị công thức tính toán khoản thu nhập (D) phụ thuộc vào những yếu tố thu nhập thực sự (I), khả năng bị phát hiện (p), khoản phạt (f) và thuế suất (t) như sau:
D = f(I, p, f, t)
Công thức này chỉ ra rằng thu nhập báo cáo (D) biến thiên phụ thuộc trực tiếp bởi yếu tố thu nhập, khả năng bị rà soát và khoản phạt, nhưng ngược chiều với mức thuế suất.
Ngoài ra, hành vi tuân thủ sẽ tác động trực tiếp tới lợi ích mỗi tư nhân nhận được tự nhà sản xuất công hình thành từ những khoản đóng góp thuế của họ.
Lý thuyết của Allingham và Sandmo dựa trên giả thiết là NNT đóng thuế là kết quả của việc họ sợ bị phát hiện và đóng phạt. Tuy nhiên, rõ ràng là hành vi tuân thủ của NNT ko thể được giảng giải hoàn toàn bởi những yếu tố về kinh tế và mức độ nghiêm khắc của luật. Lý thuyết của Allingham và Sandmo được cho rằng quá đơn thuần và đã bỏ qua rất nhiều yếu tố phi kinh tế cần thiết chưa được nói.
Để khắc phục những khuyết thiếu trên, thuyết hành vi dự kiến được đề xuất bởi Ajzen năm 1985, thuyết hành vi dự kiến được phát triển từ thuyết hành vi với lý do của Fishbein và Ajzen đề xuất năm 1975. Xuất phát điểm của lý thuyết này cho rằng, mọi người với khả năng sẽ thực hiện một hành vi nếu họ thẩm định hành vi đó sẽ mang lại kết quả tích cực và nếu họ cho rằng những người khác cũng muốn thực hiện hành vi đó. Tuy nhiên, việc thẩm định kết quả tích cực và nhiều người cùng muốn thực hiện ko phải lúc nào cũng dẫn tới việc thực hiện hành vi.
Để tăng tính dự đoán cho lý thuyết hành vi với lý do, Ajzen đã thêm một thành tố nữa là thành tố kiểm soát hành vi cảm nhận. Giả thuyết chính của lý thuyết hành vi dự kiến là yếu tố trung gian của hành vi, được gọi là dự kiến thực hiện hay ko thực hiện một hành vi. Dự kiến này được Ajzen đề nghị là gồm ba nhân tố: thái độ, chuẩn mực chủ quan và kiểm soát chủ quan về một hành vi cụ thể. Lý thuyết hành vi dự kiến đưa ra những giảng giải về sự kết hợp của ba nhân tố trên trong việc dự đoán hành vi của con người.
Lý thuyết hành vi dự kiến được xem là một lý thuyết thích hợp để giảng giải những yếu tố tác động vào hành vi tuân thủ thuế của NNT. Một số nghiên cứu đã sử dụng lý thuyết hành vi dự kiến để giảng giải như nghiên cứu của Damayanti năm 2012; Benk, Cakmak, & Budak năm 2011; Hai & See năm 2011; Trivedi, Shehata, & Mestelman năm 2005; Hanno & Violette năm 1996. Tới nay đã với khoảng 55 nhân tố tác động đưa phân loại thành 3 nhóm, cụ thể: Thái độ (16 nhân tố), Chuẩn mực chủ quan (7 nhân tố) và kiểm soát chủ quan (29 nhân tố), cuối cùng những nhân tố còn lại được phân vào nhóm khác.
Trong luận án này, NCS sử dụng lý thuyết hành vi dự kiến của Ajzen đề xuất năm 1985 làm lý thuyết nền để giảng giải mối quan hệ giữa những nhân tố tác động tới hành vi dự kiến tuân thủ thuế TNCN của NNT.