Các nghiên cứu về “Nhân tố chủ quan tác động đến trách nhiệm xã hội đối với người lao động”

Với tiếp cận khác nhau, những nghiên cứu trong và ngoài nước nhận diện và chỉ ra rằng quá trình thực hiện TNXH đối với NLĐ chịu tác động bởi nhiều nhân tố. Trong đó sở hữu những nhân tố chủ quan được tiến hành phân tích định lượng như:

Lãnh đạo doanh nghiệp: Theo Labelle và Saint pierre (2010) lãnh đạo là nhân tố quyết định tới thực hiện TNXH đối nhất với NLĐ của DN. Bởi lẽ với những DN thì quyền hạn và nhiệm vụ của lãnh đạo là to nhất. Jenkins và Yakovleva N (2006) cho rằng cơ cấu quản trị ít cấp và tập trung làm cho việc thực hiện TNXH đối với NLĐ đạt kết quả tốt hơn. Nói cách khác người quản lý DN là yếu tố cốt yếu để DN thực hiện TNXH. Elijah L.Letangule (2013) phát hiện rằng tuổi của lãnh đạo DN đóng vai trò quan yếu trong hệ trị giá của lãnh đạo DN và kết luận rằng lãnh đạo trẻ thường sở hữu mức độ thực hiện TNXH đối với NLĐ cao hơn lãnh đạo già. Tương tự, tầm nhìn của lãnh đạo về tương lai của DN, nhận thức và hiểu biết của lãnh đạo về những nguồn lực nội tại tác động tới cam kết TNXH đối với NLĐ của DN (Spenc 2007). Sumina Elizabeth Thomas (2011), Teresa Correia de Lacerda (2014), Hương (2015), trong mô phỏng nghiên cứu đã đưa quá trình thực hiện TNXH là biến phụ thuộc, lãnh đạo DN là biến độc lập và giả thuyết nghiên cứu đã được kiểm định là lãnh đạo sở hữu tác động dương tới quá trình thực hiện TNXH, TNXH đối với NLĐ.

Hoạch định chiến lược: Những nhà nghiên cứu cho rằng hoạch định chiến lược là nền tảng quan yếu trong chiến lược của DN. Hoạch định chiến lược là điều kiện cần thiết để thực hiện hoá TNXH đối với NLĐ của DN. Bởi vì Slater, Olson, và Hult, (2006) giám định hoạch định chiến lược giúp DN sở hữu được thông tin để giám định được cả môi trường bên trong và môi trường bên ngoài của DN. Chính nó đã hướng dẫn những nhà quản lý sở hữu những hành động đúng đắn trong điều kiện môi trường luôn thay đổi (Isabella Sandra và Lynn, 1994). Vì vậy, những nhà nghiên cứu Hazoor muhammd sabir và những công sự (2012) trong mô phỏng nghiên cứu của mình đã đưa ra giả thuyết nghiên cứu hoạch định chiến lược sở hữu tác động cùng chiều với quá trình thực hiện TNXH đối với NLĐ của DN. Và giả thuyết này sở hữu ý nghĩa thống kê.

Nguồn lực tài chính của DN: Để thực hiện tốt hoạt động TNXH đối NLĐ, DN cần phải đầu tư một khoản kinh phí ko hề nhỏ. Mặc dù nhiều khoản kinh phí nằm trong danh mục giá tiền của DN nhưng để thực sự làm tốt TNXH như là tăng thêm lợi ích cho NLĐ thì nguồn lực tài chính của DN là một trong những nhân tố quan yếu. Những nghiên cứu thực nghiệm được tổng hợp bởi Lepoutre và Heene (2006) cho thấy DN sở hữu nguồn lực tài chính hạn hẹp sẽ làm giảm động lực thực hiện TNXH nói chung và đối với NLĐ của DN nói riêng. Những nghiên cứu thực nghiệm phát hiện rằng tài chính DN sở hữu tác động, tác động dương tới quá trình thực hiện TNXH, TNXH đối với NLĐ trong những nghiên cứu của Lepoutre và Heene (2006), Li Yu, (2015); Adeyemo S.A và cùng sự (2013); Lành, Trâm, (2016).

Văn hóa doanh nghiệp: Văn hóa DN tác động tới TNXH đối với NLĐ. Bởi lẽ trị giá của hãng tác động bởi những yếu tố như tầm nhìn và xứ mệnh của tổ chức và chính văn hoá DN tác động tới hiệu quả kinh doanh của DN. Văn hoá DN được đặc trưng bởi sự thành công trong kinh doanh vững bền và đảm bảo đạo đức. Galbreath (2010) cho rằng văn hoá nhân văn còn sở hữu tác động mạnh tới TNXH của DN. Mặt khác, văn hóa DN tập trung vào con người, hợp tác, làm việc theo nhóm Cooke và Lafferty (1994), những thành viên sẽ tương trợ lẫn nhau trong quá trình làm việc, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích tư nhân. Tóm lại, văn hóa DN giúp DN sở hữu thể thực hiện tốt nhu cầu của các đối tác liên quan trong đó sở hữu TNXH  đối với NLĐ  nói riêng.  Hazoor muhammd sabir và những công sự (2012); Ülle Übius và Ruth  Alas, (2014), Saed Adnan Mustafa và Hassan Rawash (2017) trong mô  hình  nghiên cứu của mình đã kiểm định giả thuyết sở hữu một  mối quan hệ tích cực giữa  văn hóa DN và quá trình thực hiện TNXH nói chung và đối với NLĐ của DN nói riêng. Giả thuyết này đã được chấp nhận trong mô phỏng nghiên cứu đề xuất.

Quy mô của doanh nghiệp: Hầu hết những nghiên cứu thực nghiệm sản xuất chứng cớ cho thấy quy mô DN sở hữu tác động tới mức độ thực hiện TNXH đối với NLĐ (Lepoutre và Heene, 2006; Perini và cùng sự, 2007; Nagib Salem Bayoud và cùng sự, 2012). Những nhà nghiên cứu tìm thấy một liên kết quan yếu và tích cực giữa quy mô DN và mức độ thực hiện TNXH đối với NLĐ. Những phát hiện này làm rõ tầm quan yếu của mối quan hệ giữa quy mô của DN và mức độ thực hiện TNXH. Moore (1992), Branco, Rodrigues (2008) chứng minh rằng mức độ thực hiện TNXH trong những DN to là cao hơn so với những DN nhỏ, bởi vì các đối tác liên quan mong muốn những DN to với quy mô tương ứng cần thực hiện TNXH đối với NLĐ tốt hơn, tiên phong hơn những DN nhỏ. Nagib Salem Bayoud và cùng sự, (2012) trong mô phỏng nghiên cứu đã kiểm định: quy mô của DN tác động cùng chiều tới thực hiện TNXH nói chung và đối với NLĐ của DN nói riêng.

Loại hình doanh nghiệp: Những loại hình như DN nhà nước, DN sở hữu vốn đầu tư nước ngoài, DN tư nhân. Trong đó nhiều dự án đã công phu phân tích về loại hình DN trong thực hiện TNXH. Nghiên cứu của Jenkins (2006) đã kết luận dựa trên những quan sát mà những DN thuộc những loại hình khác nhau thì hoạt động TNXH khác nhau. Mô phỏng nghiên cứu của Banerjee (2003), Nikolaou và Tsalis (2013) cũng đã tìm thấy loại hình DN là nhân tố tác động tới TNXH của DN.

Rate this post

Bình luận