Đặc điểm chung của các chiến lược xuất khẩu

– Theo V.H. Kirpalani, xuất khẩu là một trong những chiến lược quan yếu trong xu thế quốc tế hoá để xâm nhập thị trường nước ngoài. Xét về quá trình phát triển lịch sử, xuất khẩu cũng là phương thức xâm nhập thị trường nước ngoài được tổ chức sớm nhất so với cấp phép, liên doanh… Theo kết quả của một số nhà nghiên cứu, xuất khẩu đã xuất hiện từ thời kỳ trước Công nguyên, tiêu biểu nhất là hành trình xuất khẩu tơ lụa xuyên lục địa á

– Âu, từ ấn Độ, TQ qua Trung Đông sang La Mã và những nuớc như Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan…

– Đặc điểm chung to nhất của xuất khẩu là việc di chuyển sản phẩm qua biên giới quốc gia, phạm vi hoạt động mở rộng, chịu tác động phức tạp của nhiều yếu tố môi trường nước ngoài như chính trị, pháp luật, văn hoá, xã hội, địa lý khí hậu.

– Xuất khẩu thường mang lại mức lợi nhuận quyến rũ ko chỉ đối với những tổ chức to xuyên quốc gia hay đa quốc gia (TNCs/MNCs) mặc cả những tổ chức vừa và nhỏ ở những nước đang phát triển. Tới thập niên 90 của thế kỷ trước, riêng phần xuất khẩu của những TNCs đã chiếm tới 64% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn toàn cầu. Nhiều lý thuyết kinh tế từ lâu đã khẳng định rằng, tất cả các nước, dù to hay nhỏ, đều với lợi lúc tham gia vào thương nghiệp quốc tế, trong đó phải nói tới hoạt động xuất khẩu. Bản thân lợi ích và tính quyến rũ vốn với đã xúc tiến xuất khẩu ra đời sớm nhất, đồng thời mở rộng rất nhanh chóng ở hầu hết tất cả các nước trên toàn toàn cầu. Trong chiến lược phát triển kinh tế chung, xuất khẩu là một chiến lược sống còn của những nước phát triển siêu cường (như Mỹ, Nhật, Đức, Anh, Pháp…) cũng như những nước công nghiệp mới (NICs như Hàn Quốc, Singapore, Hongkong, Đài Mortgage, Mêhicô…) hay cac nước đang phát triển khác hiện nay như TQ, ấn Độ… Sự bành trướng xuất khẩu của tất cả những tổ chức to nhỏ là quy luật của quá trình công nghiệp hoá trên toàn cầu.

– Những chủ quan yếu xuất khẩu

Ngoài những nhà xuất khẩu và nhập khẩu (hai chủ thể cơ bản nhất), trong quá trình phát triển những hoạt động xuất khẩu còn phải kể tới những chủ thể khác như:

+ Phòng thương nghiệp và công nghiệp
+ Những Hiệp hội công nghiệp – xuất khẩu
+ Những cơ quan Chính phủ, tiêu biểu là Bộ thương nghiệp
+ Những tổ chức xúc tiến xuất khẩu Chính phủ và phi Chính phủ
+ Những đại lý, môi giới xuất khẩu
+ Những tổ chức, tư nhân tư vấn xuất khẩu…

– Về hình thức xuất khẩu, gồm với xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp

1. Xuất khẩu gián tiếp (qua trung gian)

a. Trường hợp vận dụng

Xuất khẩu gián tiếp (Oblique Exporting) thường được vận dụng trong những trường hợp phổ biến sau:

– Đơn vị chưa với đủ thông tin cần thiết về thị trường nước ngoài, như nhu cầu và cầu cụ thể, tập quán và thị hiếu của người tiêu tiêu dùng, đối thủ khó khăn.
– Lần đầu tiếp cận, xâm nhập thị trường,
– Quy mô kinh doanh còn nhỏ,
– Những nguồn lực với hạn, chưa thể dàn trải những hoạt động ở nước ngoài.
– Khó khăn homosexual gắt, thị trường quá phức tạp, rủi ro cao.
– Rào cản thương nghiệp từ phía Nhà nước.

b. Hình thức tiến hành

Đơn vị với thể xuất khẩu gián tiếp theo một trong những hình thức sau:
– Thông qua tổ chức thương nghiệp xuất khẩu hay nhà xuất khẩu chuyên doanh,
– Qua tổ chức tìm gom hàng và xuất khẩu,
– Qua một hãng khác xuất khẩu theo kênh Advertising and marketing riêng của họ.
– Qua một tổ chức quản lý xuất khẩu…

Tóm lại, tổ chức với thể tiến hành linh hoạt qua môi giới, đại lý xuất khẩu hay uỷ thác xuất khẩu.

c. Ưu nhược điểm

Đối với xuất khẩu gián tiếp này, ưu điểm chính là sản phẩm của tổ chức vẫn được xâm nhập kịp thời thị trường nước ngoài, tạo dựng được hình ảnh của doanh nghiệp và quốc gia xuất khẩu. Tuy nhiên, xuất khẩu gián tiếp đã phát sinh thêm những giá tiền trung gian, do đó lợi nhuận của doanh nghiệp cũng giảm. Mặt khác, doanh nghiệp ko biết được kịp thời nhu cầu biến động của thị trường nước ngoài cũng như tâm lý thị hiếu của khách hàng lúc tiêu tiêu dùng sản phẩm.

2. Xuất khẩu trực tiếp (Direct Exporting)

a. Trường hợp vận dụng

Nhìn chung, tổ chức chỉ tiến hành xuất khẩu trực tiếp trong những trường hợp cụ thể sau:
– Trước lúc xuất khẩu, tổ chức phải nghiên cứu thị trường và phải với được đầy đủ những thông tin cần thiết nhằm đảm bảo kiên cố cho hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả như dự kiến. Đây là yếu tố quan yếu hàng đầu và cũng là điều kiện để xuất khẩu trực tiếp.
– Phải với đủ nguồn lực để mở rộng hoạt động ra thị trường nước ngoài,
– Mang khả năng quản lý, quản lý xuất khẩu hiệu quả,

b. Hình thức tiến hành

Doanh nghiệp với thể tiến hành theo những hướng như:
– Mở chi nhánh bán hàng của mình ở nước ngoài,
– Xuất khẩu từ nước thứ ba,
– Xuất khẩu từ tổ chức liên doanh,
– Lập đại diện bán hàng ở nước ngoài,
– Tiến hành qua Hiệp hội xuất khẩu…

c. Ưu nhược điểm

Nhìn chung, ưu điểm vượt trội của xuất khẩu trực tiếp là thông tỏ sâu sắc tình hình thị trường, thường xuyên cập nhật được những nhu cầu mới và tâm lý thị hiếu thay đổi của khách hàng để kịp thời cải tiến sản phẩm, thoả mãn tốt nhất nhu cầu đó. Tương tự tổ chức xuất khẩu với thể xử sự năng động với từng thị trường nước ngoài. Mặt khác, tổ chức ko phải chịu những giá tiền xuất khẩu trung gian và lợi nhuận ko bị san sẻ. Về nhược điểm, tổ chức phải dàn trải những nguồn lực của mình trên phạm vi thị trường rộng to phức tạp hơn, phải chấp nhận môi trường khó khăn quốc tế khốc liệt hơn, phải chấp nhận mọi rủi ro của thị trường ngoài nước.

Rate this post

Originally posted 2019-01-08 01:16:52.

Bình luận