Thực trạng chính sách huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính Hà Tĩnh (tham khảo)

Căn cứ vào Quyết định 800/QĐ-TTg, Quyết định 695/QĐ-TTg của Chính Phủ và những văn bản do những Bộ, ngành trung ương hướng dẫn, HĐND, UBND Tinh Hà Tĩnh đã vận dụng và ban hành những chính sách nhằm tập trung huy động, sử dụng nguồn lực XDNTM gắn liền với đặc thù của địa phương. Hệ thống chính sách được bổ sung, điều chỉnh đồng bộ, cơ bản đáp ứng yêu cầu XDNTM

Về chính sách huy động và sử dụng NSNN:

+ Để tạo chính sách điều tiết NSNN cho chương trình XDNTM, ngay từ chủ trương chung, các ngành chính quyền ở Hà Tĩnh đã thống nhất: “NSNN các ngành hàng năm dành tối thiểu 35% đầu tư cho ngành NN và XDNTM”[88] “UBND các ngành sắp đặt NS hàng năm để tương trợ, khuyến khích những DN, tư nhân đầu tư phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản hàng hóa khu vực NT, đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật và nhà cung cấp, phát triển những làng nghề, những cụm, điểm tiểu thủ công nghiệp để khắc phục việc làm tại chỗ, tăng thu nhập cho nông dân.”[87]. Những quyết định số 2165 /QĐ- UBND, QĐ số 2909/UBND-NNNT, Quyết nghị 90/2014/NQ-HĐND và Quyết định số 67/2014/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích phát triển NN, NT thực hiện tái cơ cấu ngành NN gắn với XDNTM; Quyết nghị số 114/2014/NQ-HĐND ngày 20/12/2014 của HĐND tỉnh ban hành Quy định sử dụng vốn NSNN thuộc Chương trình MTQG XDNTM giai đoạn 2015 – 2020, … dựa vào những chính sách này, quá trình xây dựng đề án XDNTM từ cấp tỉnh tới cấp xã mang hạ tầng để tính toán, xác định NLTC cho Chương trình.

+ Phân cấp NSNN, tạo thêm nguồn cho địa phương chủ động: Dành tối thiểu 70% số thu từ quyền sử dụng đất cho NS cấp xã đầu tư XDNTM. Ngoài NS tỉnh tương trợ, những thị xã, thành xã được khuyến khích căn cứ điều kiện cụ thể để xây dựng chính sách tương trợ thích hợp với địa phương.

+ UBND tỉnh ban hành “Quyết định số 19/2012/QĐ-UBND ngày 16/5/2012 quy định tạm thời về huy động vốn, cơ chế lồng ghép, quản lý những tài chính trong XDNTM trên khu vực tỉnh Hà Tĩnh”[89, 94], quy định rõ cơ chế quản lý những NLTC cho XDNTM.

+ Về chính sách tăng cường huy động NSNN xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH: UBND Tỉnh đã ban hành “chính sách tương trợ NSNN theo tỷ lệ cụ thể (Phụ lục 2) để thực hiện nhóm tiêu chí này (Quyết định 10/2013/QĐ-UBND ngày 22/02/2013”[93])

+ Về chính sách tương trợ phát triển sản xuất: HĐND, UBND tỉnh đã ban hành những chính sách, chính sách tương trợ sản xuất NN như “Quyết nghị số 91/2014/NQ-HĐND và Quyết định số 62/2014/QĐ-UBND về chính sách tương trợ tiêu thụ những sản phẩm sản xuất trong tỉnh; QĐ số 26/2014 về ban hành một số chính sách khuyến khích phát triển, bảo quản, chế biến và tiêu thụ nông sản chủ yếu của Hà Tĩnh tới năm 2020”[87, 88, 95], Bên

cạnh đó, UBND tỉnh ban hành hàng loạt những quyết định về chính sách, chính sách tương trợ những nội dung công việc cụ thể liên quan tới phát triển sản xuất NN. Những văn bản pháp lý trên quy định chính sách tương trợ nguồn NSNN cho những hộ nông dân, HTX về giống cây trồng, vật nuôi, tìm máy móc phục vụ sản xuất NN và bảo quản nông sản [86].

+ Về chính sách tăng cường NSNN cho văn hóa, xã hội, môi trường: Kế bên việc sắp đặt kinh phí NS tỉnh hàng năm, lồng ghép vốn của những Chương trình MTQG về giáo dục, y tế, môi trường, Tỉnh ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh XHH đối với những ngành văn hóa, xã hội, môi trường. Cụ thể: “Quyết nghị số 20/NQ-HĐND ngày 16/12/2011 của HĐND tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt Đề án Phát triển Giáo dục và Huấn luyện tỉnh Hà Tĩnh tới năm 2015 và những năm tiếp theo; Quyết định số 35/2012/QĐ- UBND ngày 13/7/2012 của UBND tỉnh ban hành Quy định một số chính sách đối với ngành Giáo dục và Huấn luyện, Quyết nghị số 21/NQ-HĐND ngày 16/12/2011 của HĐND tỉnh, Quyết định số 03/2012/QĐ-UBND ngày 31/01/2012 của UBND tỉnh ban hành Quy định một số chính sách đối với công việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân tới năm 2015 và những năm tiếp theo”[89]; “Quyết định số 17/2014/QĐ-UBND ngày 24/09/2014 quy định về một số chính sách chính sách khuyến khích XHH đối với những hoạt động trong ngành giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường tới năm 2020, Quyết định số 2926/QĐ-UBND ngày 20/9/2013 của UBND tỉnh Hà Tĩnh phê duyệt Đề án Tăng cường xây dựng và tăng chất lượng hệ thống thiết chế văn hóa, thể thao hạ tầng giai đoạn 2013 – 2020; Quyết định số 18/2015/QĐ-UBND ngày 09/5/2015 của UBND tỉnh Hà Tĩnh quy định một số chính sách tương trợ xây dựng thiết chế văn hóa, thể thao hạ tầng tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2015-2020”[89]….

-Chính sách huy động nguồn lực tài chính từ tín dụng

Chính sách tín dụng phục vụ phát triển NNNT được ban hành theo “Nghị định 41/NĐ- CP ngày 12/04/2010”[62], thay thế bằng “Nghị định 55/2015/NĐ-CP ngày 9/6/2015 của Chính Phủ”[59]. UBND Tỉnh cũng đã kịp thời mang “quyết định số 26/2012/QĐ-UBND ngày 11/6/2012 và Quyết định số 09/2013/QĐ-UBND ngày 18/2/2013 của UBND tỉnh tương trợ lãi suất vay vốn tại những tổ chức tín dụng để phát triển sản xuất từ tài chính CTMTQG XDNTM; Quyết định số 03/2013/QĐ-UBND ngày 17/01/2013 và Quyết định số 07/2013/QĐ-UBND ngày 31/01/2013 của UBND tỉnh (bổ sung một số nội dung Quyết định 03/2012/QĐ-UBND)”[89, 95, 96] tương trợ lãi suất vay vốn phát triển sản xuất NN – NT; những DN, HTX, trang trại đầu tư phát triển sản xuất, khắc phục việc làm; thu tìm, chế biến; sản xuất dụng cụ và khắc phục vấn đề môi trường về tương trợ lãi suất vay vốn trong XDNTM. Tuy nhiên, chính sách tương trợ những ngành nghề ưu tiên đồng bộ với Chương trình XDNTM của Chính phủ, trong đó đẩy mạnh cấp tín dụng sản xuất ứng dụng khoa học cao, đẩy mạnh xuất khẩu. Đặc trưng ưu tiên những vấn đề cho vay theo chuỗi liên kết, tạo GTGT cho sản phẩm NN, từ đó tạo hiệu quả cho Chương trình XDNTM[86].

-Chính sách huy động nguồn lực tài chính từ doanh nghiệp

Chính sách “khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào NNNT được ban hành theo Nghị định 61/NĐ-CP ngày 04/06/2010”[63] và sau đó được thay thế bằng Nghị định 210/2013/NĐ-CP của Chính phủ. Trên hạ tầng đó, Hà Tĩnh đã đưa ra nhiều chính sách tương trợ DN tại Quyết nghị 157, Quyết nghị 90 của HĐND tỉnh mở rộng đối tượng tương trợ khuyến khích những doanh nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, nhà cung cấp đầu tư trên khu vực nông thôn, như chính sách 6 tương trợ[14] đối với DN, CNKD đăng ký thành lập mới trên khu vực tỉnh như: Tương trợ 100% lệ phí đăng ký DN và 100% phí công bố nội dung đăng ký DN; Tương trợ 100% phí khắc dấu DN; Tương trợ kinh phí thực hiện phần mềm kế toán DN; biển hiệu cho những DN; Tương trợ 100% thuế môn bài cho những DN thành lập mới. Đối với những DN kinh doanh trong ngành NN, NT, còn được Tỉnh tương trợ miễn giảm tiền thuê đất đai, mặt nước, phóng thích mặt bằng; đầu tư kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào; lãi suất vốn vay; san lấp, làm phẳng mặt bằng lần đầu cho hoạt động SXKD rau củ quả ứng dụng khoa học cao; tương trợ kinh phí tìm giống, thuốc bảo vệ thực vật… Những DN trong tỉnh đủ điều kiện sản xuất giống lúa theo quy định pháp luật hiện hành được tương trợ sản xuất giống sau lúc hoàn thành việc tìm bản quyền giống thích hợp với cơ cấu giống của Tỉnh; Tương trợ cơ giới hóa trong NN; Tương trợ nhập cảng, khảo nghiệm giống lạc mới; Tương trợ bình tuyển cây đầu dòng cho cam bù, cam chanh, bưởi Phúc Trạch; Tương trợ chăn nuôi lợn, bò, hươu, gà, hạ tầng giết thịt mổ gia súc gia cầm, nuôi trồng thủy sản, khai thác thủy sản, hậu cần nghề cá, sản xuất muối sạch; Tương trợ chuyển hóa rừng, chế biến gỗ; Tương trợ lãi suất vay vốn[15]….

– Chính sách huy động nguồn lực tài chính từ cùng đồng:

Việc huy động sự đóng góp của người dân cho chương trình XDNTM vẫn chủ yếu thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư 85/1999/TT-BTC ngày 7/7/1999 hướng dẫn “Nghị định 24/1999/NĐ-CP ngày 16/4/1999 về Quy chế tổ chức huy động, quản lý và sử dụng những khoản đóng góp tự nguyện của nhân dân để xây dựng CSHT của những xã, thị trấn”[75, 89]. Nguồn huy động của nhân dân được tiêu dùng chủ yếu để xây dựng dự án phúc lợi phục vụ cùng đồng hạ tầng cấp xã, liên thôn…

Nhìn chung, những chính sách của tỉnh đã ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, rõ ràng và thích hợp với đặc điểm của tỉnh, thể hiện sự nỗ lực của Tỉnh trong việc khai thác những NLTC để thực hiện CTMTQG XDNTM.

Khảo sát 60 cán bộ quản lý và 60 doanh nghiệp trên khu vực Hà Tĩnh về những chính sách huy động, sử dụng những NLTC cho XDNTM trên khu vực Hà Tĩnh nhận thấy, phần to thẩm định chỉ ngừng ở mức trung bình. Trong đó, tính hiệu lực và tính hiệu quả được thẩm định cao nhất, tương ứng với mức 3,27 và 3,28 thẩm định ở mức rất cao và cao. Tính thích hợp là tiêu chí bị thẩm định thấp nhất, với trị giá trung bình là 2,79.

Nguyên nhân mà những chính sách huy động, sử dụng những NLTC cho XDNTM trên khu vực Hà Tĩnh được thẩm định chỉ ngừng ở mức trung bình mang thể chỉ ra là:

-Về chính sách huy động và sử dụng NSNN:

+ Xây dựng NTM được lồng ghép từ nhiều tài chính khác nhau, mỗi tài chính mang trật tự, thủ tục khác nhau trong lúc chưa mang văn bản của TƯ hướng dẫn việc lồng ghép những tài chính nên những địa phương gặp vấn đề trong việc thực hiện lồng ghép những NLTC.

+ Ngân sách tương trợ của nhà nước thấp, nên những địa phương thường tập trung cho một số xã điểm, những xã khác ít được đầu tư.

+ Ngân sách cấp ko đầy đủ, chậm nên nhiều dự án Đó, kéo dài trong nhiều năm.

+ Nguồn NSTƯ thường được giao kế hoạch vốn muộn (2-6 tháng), gây khó khăn cho những địa phương trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch.

-Về chính sách huy động, sử dụng NLTC từ tín dụng:

+ Bộ Tài chính và NHNN chậm ban hành hướng dẫn phân loại nợ, trích lập, sử dụng quỹ dự phòng rủi ro cho vay NN,NT và cơ chế xử lý nợ vay khó đòi trong cho vay NNNT ko mang bảo đảm bằng tài sản. Quy định việc khoanh nợ chỉ ứng dụng trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh trên diện rộng và mang công bố chưa thích hợp vì chính sách này ko tương trợ thường xuyên cho những rủi ro mà sản xuất NN manh mún hiện nay đang gặp phải.

+ Quy định đối tượng vay vốn thụ hưởng chính sách ưu đãi phải trú ngụ ở nông thôn (xã) là chưa hợp lý đối với những người dân cùng ngành nghề, cùng canh tác trên cùng thửa ruộng nhưng lại trú ngụ tại phường, thị trấn.

+ Thiếu ưu đãi cho vay đầu tư xây dựng CSHT nông thôn.

+ Chưa mang chính sách khuyến khích cung ứng tín dụng trung và dài hạn nên người dân nông thôn vẫn gặp vấn đề trong tiếp cận tài chính trung và dài hạn.

+ Những ưu đãi chưa đủ quyến rũ những tổ chức tín dụng cung ứng tín dụng NN, NT.

-Về chính sách huy động, sử dụng NLTC từ doanh nghiệp

+ Mức ưu đãi, tương trợ còn quá thấp so với những rủi ro mà DN phải đối mặt lúc đầu tư vào NN, NT. Những khoản tương trợ trong những chính sách còn chưa sát với nhu cầu thực tế mà những DN mong muốn được tương trợ.

+ Những khoản tương trợ cũng chia nhỏ như tương trợ tư vấn, huấn luyện nghề, nghiên cứu khoa học, quảng cáo tiếp thị, tương trợ cước phí… Những khoản tương trợ này rất khó tính toán, những DN ko thể tiên lượng được khoản tương trợ của Nhà nước và tương tự cũng gây khó khăn cho những cơ quan quản lý.

+ Thủ tục hồ sơ xin ưu đãi phức tạp. DN cần làm nhiều hồ sơ, thủ tục trình lên cơ quan quản lý xét duyệt. Bản thân những DN cho rằng họ mang dự án đầu tư vào NN, NT hiển nhiên phải được lợi ưu đãi, tương trợ track DN lại phải đi xin ưu đãi, điều đó làm giảm động lực của DN lúc đầu tư.

-Về chính sách huy động, sử dụng NLTC từ cùng đồng: Mặc dù theo quy định, NLTC huy động từ cùng đồng dân cư phải theo phương thức đóng góp tự nguyện, nhưng trong thực tế, nhiều xã sử dụng phương thức phân bổ đóng góp trên nhân khẩu hoặc trên hộ gia đình, thậm chí mang nơi mức đóng góp quá cao, chưa thích hợp với từng đối tượng người dân, gây giận dữ trong nhân dân.

Rate this post

Bình luận