Tuỳ theo mục đích nghiên cứu, cấu trúc của TTCK mang thể được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau. Tuy nhiên, thông thường, ta mang thể xem xét ba cách thức cơ bản là phân loại theo hàng hoá, phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường và phân loại theo quá trình luân chuyển vốn.Những phân tích sau đây sẽ thể hiện từng cách thức phân loại đó.
a. Phân loại theo hàng hoá
Theo những loại hàng hoá được tìm bán trên thị trường, người ta mang thể phân thị trường chứng khoán thành thị trường trái phiếu, thị trường cổ phiếu và thị trường những dụng cụ dẫn suất.
Thị trường trái phiếu (Bond Markets) là thị trường mà hàng hoá được tìm bán tại đó là những trái phiếu. Trái phiếu là dụng cụ nợ, mà thực chất của việc phát hành những dụng cụ này là nhà phát hành đứng ra đi vay theo phương thức mang hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Người cho vay sẽ ko chịu bất cứ trách nhiệm nào về kết quả hoạt động sử dụng vốn của người vay và trong mọi trường hợp, nhà phát hành phải mang trách nhiệm hoàn trả cho trái chủ theo những cam kết đã được xác định trong hợp đồng vay. Trái phiếu thường mang thời hạn xác định, mang thể là trung hạn hay dài hạn.
Khác với thị trường nợ, thị trường cổ phiếu (Inventory Markets) là nơi giao dịch tìm bán, trao đổi những giấy tờ xác nhận cổ phần đóng góp của cổ đông.
Cổ đông là chủ sở hữu của tổ chức và phải chịu trách nhiệm trong phần đóng góp của mình. Cổ phiếu sẽ cho phép họ mang quyền yêu cầu đối với lợi nhuận sau thuế của tổ chức cũng nhưđối với tài sản của tổ chức, lúc tài sản này được đem bán. Cổ phiếu mang thời kì đáo hạn là ko xác định.
Thị trường những dụng cụ dẫn suất (Spinoff Markets) là nơi những chứng khoán phái sinh được tìm và bán. Tiêu biểu cho những dụng cụ này là hợp đồng tương lai (Future Contracts), hợp đồng quyền chọn (Choices). Thị trường này ngày càng trở nên quan yếu đối với những nhà quản lý tài chính. Nó sản xuất những dụng cụ phòng vệ hữu hiệu, đồng thời cũng là dụng cụ đầu cơ lý tưởng cho những nhà đầu tư.
b. Phân loại theo quá trình luân chuyển vốn
Theo cách thức này, thị trường được phân thành thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp hay thị trường cấp 1 (Main Market)là thị trường phát hành những chứng khoán hay là nơi tìm bán những chứng khoán lần đầu tiên. Tại thị trường này, giá cả của chứng khoán là giá phát hành. Việc tìm bán chứng khoán trên thị trường sơ cấp làm tăng vốn cho nhà phát hành. Thông qua việc phát hành chứng khoán, Chính phủ mang thêm nguồn thu để tài trợ cho những dự án đầu tưhoặc chi tiêu tiêu dùng của Chính phủ, những doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường nhằm tài trợ cho những dự án đầu tư. Thị trường thứ cấp hay thị trường cấp 2 (Secondary Market)là thị trường giao dịch tìm bán, trao đổi những chứng khoán đã được phát hành nhằm mục đích kiếm lời, di chuyển vốn đầu tưhay di chuyển tài sản xã hội. Quan hệ giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp thể hiện trên những góc độ sau:
Thứ nhất, thị trường thứ cấp làm tăng tính lỏng của những chứng khoán đã phát hành. Việc này làm tăng sự ưa thích của chứng khoán và làm giảm rủi ro cho những nhà đầu tư. Những nhà đầu tưsẽ thuận lợi hơn trong việc sàng lọc, lựa chọn, thay đổi kết cấu danh mục đầu tư, trên hạ tầng đó làm giảm mức giá cho những nhà phát hành trong việc huy động và sử dụng vốn. Việc tăng tính lỏng của tài sản sẽ tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý, làm hạ tầng cho việc tăng hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Việc tăng tính lỏng cho những chứng khoán tạo điều kiện cho việc chuyển đổi thời hạn của vốn, từ vốn ngắn hạn sang trung hạn và dài hạn, đồng thời, tạo điều kiện cho việc phân phối vốn một cách hiệu quả. Sự di chuyển vốn đầu tưtrong nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế “bàn tay vô hình”, cơ chế xác định giá chứng khoán và thông qua hoạt động thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp trên thị trường thứ cấp.
Thứ hai, thị trường thứ cấp xác định giá của chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Thị trường thứ cấp được xem là thị trường định giá những tổ chức.
Thứ ba, thông qua việc xác định giá, thị trường thứ cấp sản xuất một danh mục mức giá vốn tương ứng với những mức độ rủi ro khác nhau của từng phương án đầu tư, tạo hạ tầng tham chiếu cho những nhà phát hành cũng nhưcác nhà đầu tưtrên thị trường sơ cấp. Thông qua cơ chế bàn tay vô hình, vốn sẽ được chuyển tới những tổ chức nào làm ăn mang hiệu quả cao nhất, qua đó làm tăng hiệu quả kinh tế xã hội.
Tóm lại, thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp mang quan hệ mật thiết, hỗ trợ lẫn nhau. Về thực chất, mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán sơ cấp và thứ cấp là mối quan hệ nội tại, biện chứng. Nếu ko mang thị trường sơ cấp sẽ ko mang thị trường thứ cấp, đồng thời, thị trường thứ cấp lại tạo điều kiện phát triển cho thị trường sơ cấp. Mục đích cuối cùng của những nhà quản lý là phải tăng cường hoạt động huy động vốn trên thị trường sơ cấp, vì chỉ mang tại thị trường này, vốn mới thực sự vận động từ người tiết kiệm sang người đầu tư, còn sự vận động của vốn trên thị trường thứ cấp chỉ là tưbản giả, ko tác động trực tiếp tới việc tích tụ và tập trung vốn.
c. Phân loại theo hình thức tổ chức của thị trường
Thị trường chứng khoán mang thể được tổ chức theo hai cách sau:
Cách thứ nhất là tổ chức thành những Sở giao dịch (Inventory Trade), tại đây, người tìm và người bán (hoặc đại lý, môi giới của họ) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch tìm bán, trao đổi chứng khoán. Chính vì vậy, người ta còn gọi Sở giao dịch chứng khoán là thị trường tập trung, nơi giao dịch tìm bán, trao đổi những chứng khoán của những tổ chức to, hoạt động mang hiệu quả. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Uỷ ban chứng khoán quốc gia, những giao dịch chịu sự điều tiết của Luật Chứng khoán và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán tập trung tiêu biểu được biết tới là Sở giao dịch chứng khoán Luân đôn (London Inventory Trade), Sở giao dịch chứng khoán Mỹ (American Inventory Trade), Sở giao dịch chứng khoán Pari (Paris Inventory Trade).
Cách thứ hai, khác với thị trường tập trung, thị trường giao dịch qua quầy hay thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC: Over -The – Counter Market) là thị trường của những nhà buôn, những người tạo thị trường (Market Makers). Những nhà buôn mang một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng tìm và bán với những nhà buôn khác cũng nhưcác nhà đầu tưkhi những người này chấp nhận giá cả của họ. ở thị trường này ko mang địa điểm giao dịch chính thức mà mang thể diễn ra tại tất cả những quầy, sàn giao dịch của những thành viên thông qua điện thoại hay mạng máy tính diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này thường to hơn rất nhiều lần so với thị trường Sở giao dịch.
Ngoài hai loại thị trường nêu trên, người ta còn nói tới thị trường thứ ba, thị trường dành cho những chứng khoán ko đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Ngoài ra, người ta còn phân loại thị trường chứng khoán thành thị trường mở và thị trường thương lượng, thị trường giao ngay (Spot Markets) và thị trường kỳ hạn (Future Markets). Việc phân loại thị trường chứng khoán sẽ giúp phân tích cụ thể hơn vai trò của thị trường chứng khoán.
Originally posted 2019-01-07 11:15:41.