Trong nền kinh tế thị trường, vốn với vai trò và ý nghĩa quan yếu đối với việc hình thành và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. Để hiện thực hoá những ý tưởng và kế hoạch kinh doanh, DN nhất thiết phải với một lượng vốn nhất định để hình thành nên những tài sản cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Lượng vốn này được những DN sử dụng để sắm sắm cho những vật liệu, vật liệu, đầu tư nhà xưởng, máy móc, trang thiết bị, chi trả tiền công, tiền lương cho người lao động…Lượng vốn này được gọi là vốn kinh doanh của DN. Tương tự, vốn kinh doanh của DN là số vốn đầu tư ứng trước của DN để hình thành những tài sản cần thiết cho quá trình kinh doanh. Tại một thời khắc, vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản mà DN quản lý, sử dụng trong quá trình kinh doanh. Theo đặc điểm luân chuyển, vốn kinh doanh được chia thành hai loại: vốn lưu động và vốn nhất quyết, trong đó, vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền tài tài sản lưu động và vốn nhất quyết là biểu hiện bằng tiền tài tài sản nhất quyết. Những nguồn tài trợ cho vốn kinh doanh hợp thành cơ cấu vốn đầu tư của DN
Hiện nay, trong những dự án nghiên cứu khoa học vẫn còn với những quan niệm khác nhau về cơ cấu vốn đầu tư của DN. Điểm khác nhau cốt yếu của những quan niệm này đó chính là việc với coi nợ ngắn hạn là một phòng ban cấu thành của cơ cấu vốn đầu tư của DN hay ko.
Những quan niệm ko coi nợ ngắn hạn là một phòng ban cấu thành của cơ cấu vốn đầu tư bao gồm những nghiên cứu của những tác giả sau:
Theo tác giả Ing. Petr Jiricek Mgr. Zdenka Dostalova: “Cơ cấu vốn đầu tư của DN với sự phân biệt với cấu trúc tài chính của DN. Điểm khác nhau cốt yếu đó là cơ cấu vốn đầu tư chỉ quan tâm tới vốn đầu tư dài hạn, trong lúc đó cấu trúc tài chính quan tâm tới cả vốn đầu tư ngắn hạn và vốn đầu tư dài hạn.”
Theo tác giả Trần Thị Thanh Tú 2006 [6] : “Cơ cấu vốn là mối tương quan tỷ lệ giữa nợ dài hạn và vốn chủ sở hữu”
Những quan niệm ko coi nợ ngắn hạn là một phòng ban cấu thành của cơ cấu vốn đầu tư xuất phát từ hạ tầng đó là nợ ngắn hạn là những khoản nợ mang tính chất ngắn hạn, tạm thời nên ko với sự tác động nhiều tới quyền quản lý và giám sát đối với hoạt động tài chính DN. Nợ ngắn hạn ko chịu tác động nhiều bởi những nhân tố bên trong và bên ngoài DN và chủ yếu được sử dụng để tạo ra nhu cầu bổ sung vốn lưu động cho DN. Hơn nữa, tầm giá sử dụng nợ ngắn hạn thường thấp nên không phù hợp mục tiêu của DN đối với việc thiết lập kế hoạch huy động vốn trong dài hạn.
Những quan niệm coi nợ ngắn hạn là một phòng ban của cơ cấu vốn đầu tư bao gồm những nghiên cứu tiêu biểu của những tác giả sau:
Theo tác giả Klayman (1994) [33]: “Cơ cấu vốn đầu tư là sự kết hợp giữa vốn chủ sở hữu và nợ phải trả, trong đó nợ phải trả bao gồm những khoản nợ vay dài hạn, nợ hình thành từ phát hành trái phiếu, thuê tài chính, những khoản tín dụng thương nghiệp và những khoản phải trả ngắn hạn khác”
Theo tác giả Eugene F.Brigham và Joel F.Houston 2010 [52]: “Cơ cấu vốn đầu tư gồm vốn đầu tư dài hạn và vốn đầu tư ngắn hạn”.
Theo tác giả Stephen A.Ross, Randolph W.Westerfield, Bradford D.Jordan 2008 [45]: “Cơ cấu vốn đầu tư là sự kết hợp giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu mà một DN sử dụng để tài trợ của những tài sản của DN. Cơ cấu vốn đầu tư tối ưu đạt được lúc tối đa hoá trị giá DN”
Theo tác giả Đoàn Hương Quỳnh 2010 [16]: “Cơ cấu vốn đầu tư là tỷ trọng của những vốn đầu tư trong tổng trị giá vốn đầu tư mà DN huy động sử dụng vào hoạt động kinh doanh. Cơ cấu vốn đầu tư được thẩm định thông qua hệ số nợ, hệ số vốn chủ sở hữu”
Những quan niệm coi nợ ngắn hạn là một phòng ban cấu thành của cơ cấu vốn đầu tư của DN xuất phát từ lý do hiện hành tại Việt Nam lúc nền kinh tế đang phát triển, những điều kiện về thị trường vốn đang dần hoàn thiện thì những khoản nợ ngắn hạn hiện vẫn đóng vai trò quan yếu trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN đặc trưng là những khoản nợ vay ngắn hạn thường xuyên (gọi tắt là nợ vay ngắn hạn) với tính chất ổn định tương tự nợ vay dài hạn. Đây là những khoản nợ vay được DN bổ sung thường xuyên hàng năm ko những để tạo ra nhu cầu vốn lưu động thường xuyên mà còn để DN trả tiền cho những khoản nợ gốc và lãi vay của những khoản nợ vay dài hạn đã được thực hiện từ những giai đoạn trước. Bởi vậy mà những khoản nợ vay này với tính chất liên tục đối với hoạt động kinh doanh của DN tương tự nợ vay dài hạn.
Theo quan niệm của tác giả, trong nợ ngắn hạn của DN, tác giả chỉ coi nợ vay ngắn hạn là phòng ban cấu thành cơ cấu vốn đầu tư của DN với lý do đây là vốn đầu tư mang tính chất thường xuyên, ổn định đối với hoạt động của DN với đặc điểm tương tự như nợ vay dài hạn. Tuy nhiên, tác giả ko coi nợ chiếm dụng là phòng ban cấu thành cơ cấu vốn đầu tư của DN vì nợ chiếm dụng là một phòng ban phát sinh tự động trong quá trình sản xuất kinh doanh của DN và ko được những DN huy động trên thị trường tài chính, DN ko phải chịu tầm giá sử dụng vốn đối với vốn đầu tư này.
Tương tự, theo quan niệm của tác giả: “Cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp được hiểu là mối tương quan tỷ lệ giữa nợ vay ngắn hạn, nợ vay dài hạn và vốn chủ sở hữu mà doanh nghiệp huy động để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục tiêu tối đa hoá trị giá doanh nghiệp”