Quy trình lập dự toán chi NSĐP cho GDCL

Trật tự lập dự toán chi NSĐP cho giáo dục phổ thông công lập ở Thanh Hóa thực hiện theo quy định của Luật NSNN và những văn bản hướng dẫn thi hành và cơ chế lập dự toán theo phân cấp quản lý ngân sách ở địa phương.

Trên cơ sở vật chất quy định của Luật NSNN, Luật Đầu tư công và những văn bản hướng dẫn thi hành; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán NSNN hằng năm; hướng dẫn của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư về xây dựng dự toán NSNN hằng năm, kế hoạch ĐTPT, kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư tham vấn cho Chủ toạ UBND tỉnh ban hành những văn bản hướng dẫn những địa phương, đơn vị xây dựng kế hoạch phát triển ngành, kế hoạch hoạt động của đơn vị, dự toán NSNN của địa phương, đơn vị gửi Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh, trình HĐND tỉnh quyết định.

Tỉnh Thanh Hóa cũng đã ban hành những văn bản quy định cụ thể một số chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi tiêu thích hợp với điều kiện thực tế của tỉnh và khả năng NSĐP, như: chế độ công việc phí, chi tổ chức những hội nghị; danh mục, thời kì sử dụng và tỷ lệ hao mòn TSCĐ vô hình, TSCĐ đặc thù…

Những địa phương, đơn vị sử dụng ngân sách căn cứ vào những quy định về chế độ, chính sách do Trung ương ban hành, những tiêu chuẩn, định mức chi cụ thể của địa phương để xây dựng dự toán NSNN của địa phương, đơn vị mình.

Trật tự lập dự toán chi NSĐP cho GDCL cụ thể như sau:

 Đối với chi ĐTPT từ NSĐP cho GDCL

Trên cơ sở vật chất khả năng cân đối vốn ĐTPT của địa phương, những ưu tiên đầu tư trong từng thời kỳ cụ thể, quy hoạch phát triển ngành và địa phương, kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 05 năm 2011-2015, 2016-2020 và quy định hiện hành của Luật NSNN, Luật Đầu tư công, Sở KH&ĐT phối hợp với những ngành tham vấn cho UBND tỉnh trình HĐND tỉnh thông qua kế hoạch đầu tư phát triển hằng năm, kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 và kế hoạch đầu tư công hằng năm.

Giai đoạn 2011-2015, dự toán chi ĐTPT cho GDCL được lập hằng năm. Căn cứ kế hoạch đầu tư phát triển hằng năm được UBND tỉnh phê duyệt và khả năng tiến độ triển khai của từng dự án, Sở KH&ĐT tham vấn trình Chủ toạ UBND tỉnh phê duyệt giao kế hoạch vốn ĐTPT của địa phương cho những dự án để UBND những thị xã, thị xã, thành thị trấn; những sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh được giao nhiệm vụ chủ đầu tư những dự án triển khai thực hiện theo quy định hiện hành của pháp luật về đầu tư và xây dựng cơ bản.

Giai đoạn 2016-2020, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện lập kế hoạch trung hạn theo quy định của Luật NSNN và Luật Đầu tư công đối với vốn đầu tư từ NSNN. Trên cơ sở vật chất Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, Sở Kế hoạch và Đầu tư tham vấn cho UBND tỉnh ban hành Kế hoạch đầu tư công hằng năm làm cơ sở vật chất phân bố vốn ĐTPT để thực hiện những chương trình, dự án đầu tư công trên khu vực tỉnh. Chi ĐTPT nguồn NSNN năm 2016-2017 được xây dựng căn cứ quy định của Luật Đầu tư công và kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020, Sở KH&ĐT tham vấn xây dựng dự toán chi ĐTPT trong cân đối NSĐP theo Quyết định số 40/2015/QĐ-TTg theo nguyên tắc chỉ xếp đặt vốn cho những chương trình, dự án đã dự kiến đưa vào kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm 2016-2020; ưu tiên xếp đặt vốn để hoàn thành và đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình, dự án quan yếu, chương trình mục tiêu, dự án mang ý nghĩa to đối với phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh; vốn đối ứng cho những dự án ODA, hoàn vốn đã ứng trước. Số vốn còn lại, xếp đặt cho những dự án chuyển tiếp, dở dang của giai đoạn 2011-2015 chuyển sang giai đoạn 2016-2020 theo tiến độ được phê duyệt đảm bảo thích hợp với mục tiêu và khả năng cân đối vốn. Đối với những dự án khởi công mới, chỉ xếp đặt vốn cho những dự án thật sự cấp bách nằm trong quy hoạch, đã xác định rõ tài chính và khả năng cân đối vốn ở từng cấp ngân sách, mang đủ thủ tục đầu tư theo quy định trước ngày 31/10 năm trước.

Trong giai đoạn 2016-2020, vốn đầu tư công cấp tỉnh ko xếp đặt vốn đầu tư mới những cơ sở vật chất GDCL. Những thị xã, thị xã, thành thị trấn xếp đặt vốn đầu tư xây dựng những trường măng non, tiểu học, THCS thuộc phạm vi quản lý từ nguồn khai thác quỹ đất và nguồn tương trợ từ ngân sách tỉnh, nguồn kinh phí thực hiện những chương trình dự án do trung ương ban hành.

Tuy nhiên, việc lập kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nói chung và kế hoạch chi ĐPT cho giáo dục giai đoạn 2016-2020 vẫn còn một số hạn chế:

Chưa mang tiêu chí cụ thể (về nội dung, mức độ ưu tiên) để rà soát, sắp xếp thứ tự ưu tiên lựa chọn những dự án mà chủ yếu dựa trên nguyên tắc xếp đặt vốn theo quy định (đối với dự án hoàn thành, dự án chuyển tiếp), những dự án mới chủ yếu dựa trên đề xuất của những ngành, những địa phương mà chưa được xem xét trong tổng thế, gắn với kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh. Vì vậy, danh mục những dự án thuộc kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016-2020 còn phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện.

Vốn ĐTPT ko phân theo ngành, trong đó mang giáo dục, do đó, khó tính toán và giám định được tỷ lệ bảo đảm chi NSĐP cho ngành giáo dục.

Vốn ĐTPT trong kế hoạch đầu tư công được phân chia thành những nhóm dự án theo tiến độ thực hiện (xếp đặt cho những dự án mang quyết toán được duyệt, dự án chuyển tiếp và dự án khởi công mới), chưa phân rõ theo 13 ngành. Trong lúc đó, theo quy định của Luật NSNN 2015 về dự toán chi NSĐP, dự toán chi ĐTPT thuộc NSĐP phải mang mức chi cụ thể cho những ngành giáo dục – huấn luyện và dạy nghề, khoa học và khoa học.

Khả năng dự đoán về tăng trưởng kinh tế trong trung hạn còn hạn chế, dẫn tới khó chủ động được nguồn lực thực hiện kế hoạch. Thanh Hóa là địa phương còn nhận trợ cấp cân đối từ ngân sách trung ương, vốn ĐTPT của địa phương chủ yếu là vốn do Trung ương bổ sung cân đối và bổ sung mang mục tiêu, vì vậy việc dự đoán nguồn lực dành cho đầu tư cơ sở vật chất vật chất ngành giáo dục là rất khó thực hiện.

Đối với chi thường xuyên NSĐP cho GDCL

Quá trình xây dựng dự toán NSĐP nói chung được thực hiện theo trật tự từ trên xuống và từ cấp cơ sở vật chất lên.

Trật tự từ trên xuống:

Hằng năm, trên cơ sở vật chất Hướng dẫn xây dựng dự toán NSNN của Bộ Tài chính, Chỉ thị về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán NSNN của Chủ toạ UBND tỉnh, Sở Tài chính ban hành văn bản hướng dẫn xây dựng dự toán NSNN năm kế hoạch vào tháng 7 năm trước. Đồng thời, trên cơ sở vật chất kết quả thảo luận dự toán NSĐP với Bộ Tài chính, Sở Tài chính thông tin số rà soát/trần chi tiêu cho những địa phương, những đơn vị dự toán cấp tỉnh để làm cơ sở vật chất lập dự toán ngân sách của địa phương, đơn vị mình.

Hướng dẫn lập dự toán ngân sách năm mang cụ thể hóa những căn cứ lập dự toán, những thay đổi về chính sách và những định hướng ưu tiên phân bổ ngân sách. Tuy vậy, hướng dẫn lập dự toán ngân sách năm chưa rõ những dự đoán kinh tế vĩ mô, mức độ ưu tiên cho những mục tiêu của ngành giáo dục và thiếu mức trần ngân sách cụ thể cho những địa phương, đơn vị sử dụng ngân sách. Do thị xã ko được thông tin số rà soát kịp thời nên tới lúc hướng dẫn lập dự toán cho xã cũng ko kèm theo số rà soát. Dự toán của những đơn vị, địa phương được lập trên cơ sở vật chất nhiệm vụ thường xuyên và hệ thống tiêu chuẩn, định mức do tỉnh ban hành.

Trật tự từ dưới lên:

Trên cơ sở vật chất những văn bản hướng dẫn, những đơn vị dự toán thực hiện lập, gửi tổng hợp dự toán chi NSĐP cho giáo dục theo trình tự sau:

Đối với ngân sách thị xã, thị xã, thành thị trấn: Những trường măng non, tiểu học, THCS, phòng GD-ĐT và Trung tâm GDTX (Trung tâm GDTX-DN) thị xã, thị xã, thành thị trấn lập dự toán gửi phòng Tài chính – Kế hoạch những thị xã, thị xã, thành thị trấn (gọi chung là phòng Tài chính – Kế hoạch cấp thị xã) tổng hợp dự toán của những đơn vị cùng với dự toán ngân sách thị xã (thị xã, thành thị trấn) báo cáo UBND thị xã (thị xã, thành thị trấn) gửi Sở Tài chính chậm nhất vào ngày 15-31/7 năm trước. Giai đoạn 2011-2016, do định mức phân bổ NSĐP cho GDCL cấp thị xã tính theo số học trò/năm nhưng dự toán tính theo phương án này của phần nhiều những địa phương không liên quan được nhu cầu kinh phí chi trả chế độ cho biên chế được giao và dành một phần cho chi nghiệp vụ. Do đó, UBND những thị xã, thị xã, thành thị trấn lập dự toán chi NSNN cho GDCL ở địa phương mình theo 02 cách: theo số biên chế được cấp mang thẩm quyền giao và theo số học trò các đơn vị quản lý học trên khu vực thị xã, thị xã, thành thị trấn để thảo luận dự toán với cơ quan tài chính. Sang năm 2017, dự toán chi NSĐP cho GDCL cấp thị xã tính theo biên chế được cấp mang thẩm quyền giao và tính chi nghiệp vụ theo số trường trực thuộc thị xã và phân theo khu vực (thành thị trấn, thị xã và đồng bằng; núi thấp; núi cao).

Đối với ngân sách cấp tỉnh: những trường THPT, trường phổ thông 02 cấp học, TT GTTX&DN tỉnh, trường DTNT tỉnh lập dự toán gửi Sở Giáo dục & Tập huấn, đồng thời gửi Sở Tài chính chậm nhất vào khoảng thời kì từ ngày 15-31/7 năm trước. Mặc dù định mức phân bổ NSĐP giai đoạn 2011-2016 cho những trường THPT tính theo số học trò/năm nhưng do tính theo phương án này phần nhiều những trường ko đảm bảo được kinh phí chi chế độ cho biên chế được giao. Vì vậy, giai đoạn này dự toán chi NSĐP cho những trường THPT xác định theo số biên chế được cấp mang thẩm quyền giao với cơ cấu giữa chi chế độ và nghiệp vụ là 90:10. Năm 2017 dự toán chi NSĐP cho giáo dục THPT xác định theo số biên được giao với cơ cấu chi chế độ và chi nghiệp vụ là 90:10.

Những nhiệm vụ mới dự kiến phát sinh năm kế hoạch của những cơ quan, đơn vị, địa phương phải mang những đề án, dự án, kế hoạch nhiệm vụ được UBND tỉnh phê duyệt trước ngày 30/10 năm trước để làm cơ sở vật chất ghi dự toán năm kế hoạch.

Trật tự xây dựng dự toán tính từ lúc lúc mang hướng dẫn của Sở Tài chính (thông thường vào đầu tháng 7 năm trước), dự toán của những địa phương, đơn vị phải gửi về Sở Tài chính để tổng hợp chậm nhất là ngày 31/7.

Trên cơ sở vật chất đề xuất dự toán của những đơn vị dự toán và khả năng nguồn lực của địa phương, Sở Tài chính chủ trì, phối hợp với Sở GD&ĐT tổ chức thảo luận dự toán và tổng hợp dự toán của những đơn vị ngành giáo dục vào dự toán NSĐP báo cáo UBND tỉnh để trình HĐND tỉnh phê duyệt theo quy định của Luật NSNN. Sở Tài chính tổ chức thảo luận dự toán chi SNGD của những thị xã, thị xã, thành thị trấn cùng với thảo luận dự toán thu, chi NSĐP cấp thị xã. Thời kì thảo luận dự toán giữa cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản và những đơn vị dự toán được thực hiện vào tháng 9-10 hàng năm. Sở Tài chính tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh về định hướng dự toán chi NSĐP cho GDCL cùng với dự toán thu NSNN, chi NSĐP trong tháng 9 năm trước và báo cáo dự toán chi NSĐP cho GDCL cùng với dự toán thu NSNN, chi NSĐP trong tháng 11 năm trước để xem xét, trình HĐND tỉnh phê duyệt.

Trật tự lập dự toán NSĐP kết hợp giữa phương pháp lập từ dưới lên và phân bổ từ trên xuống cho phép lập dự toán chi NSĐP cho GDCL cơ bản bảo đảm ko phá vỡ phạm vi phát triển tổng thể được định hướng từ cấp trên và thích hợp với chiến lược phát triển giáo dục nói riêng và phát triển kinh tế – xã hội nói chung của địa phương; đồng thời, phát huy tính tự chủ của đơn vị chi tiêu lúc chủ động xây dựng kế hoạch chi tiêu thích hợp với điều kiện thực tế của đơn vị mình.

Tuy nhiên, trật tự lập dự toán chi NSĐP cho GDCL tỉnh Thanh Hóa cũng còn bất cập: Sự tham gia của Sở GD&ĐT vào việc lập dự toán chi NSĐP cho GDCL, đặc thù là chi SNGD của những thị xã, thị xã, thành thị trấn là chưa đầy đủ. Theo trật tự này, Sở GD&ĐT mặc dù là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục nhưng chỉ tham gia vào việc quyết định dự toán của những đơn vị dự toán cấp tỉnh của ngành giáo dục, ko tham gia thảo luận dự toán thực hiện những chương trình, nhiệm vụ của những thị xã, thị xã, thành thị trấn.

Với vai trò là cơ quan quản lý ngành tại địa phương, Sở GD&ĐT/Phòng GD&ĐT mang vai trò quan yếu trong việc đảm bảo hiệu quả phân bổ. Sở GD&ĐT là cơ quan chủ trì tham vấn cho UBND tỉnh ban hành những chính sách, chương trình, đề án ngành giáo dục; đồng thời, phối hợp với Sở Tài chính trong việc tính toán, xây dựng định mức phân bổ cho những trường, những địa phương. Sở GD&ĐT/Phòng GD&ĐT là cơ quan tổng hợp, thẩm định và xác định danh mục ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục; làm cơ sở vật chất để Sở Tài chính, Sở KHĐT/Phòng KHTC tham vấn cho UBND tỉnh/thị xã, thị xã, thành thị trấn phân bổ kinh phí thực hiện những dự án đầu tư tăng cường cơ sở vật chất vật chất của ngành.

Tuy nhiên, vai trò của Sở GD&ĐT chủ yếu mới ngừng lại ở chức năng quản lý nhà nước về giáo dục và tham gia vào việc phân bổ kinh phí hoạt động, kinh phí thực hiện những chính sách và thực hiện những chương trình, dự án thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách cấp tỉnh; chưa bao quát được tổng kinh phí ngân sách chi cho ngành giáo dục của tỉnh. Không những thế, vai trò quản lý nhà nước của Sở GD&ĐT chưa được phát huy đầy đủ trong quản lý biên chế, xây dựng phương án vị trí việc làm của những đơn vị trong ngành.

Theo quy định tại Nghị định 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 của Chính phủ Quy định về vị trí việc làm trong đơn vị sự nghiệp công lập, Sở Nội vụ là cơ quan thẩm tiên đề án vị trí việc làm trong đơn vị SNCL thuộc UBND cấp tỉnh, thuộc Sở, ban, ngành và UBND cấp thị xã; tổng hợp danh mục vị trí việc làm của những đơn vị SNCL thuộc tỉnh quản lý, trình UBND tỉnh xem xét, quyết định, gửi Bộ Nội vụ theo quy định.

Theo quy định tại Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị SNCL, đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm tầm giá hoạt động, được tự quyết định biên chế; đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần tầm giá hoạt động và đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm toàn bộ tầm giá hoạt động, căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, nhu cầu công việc thực tế, định mức mục tiêu biên chế và khả năng tài chính của đơn vị, Thủ trưởng đơn vị xây dựng kế hoạch biên chế hàng năm gửi cơ quan chủ quản trực tiếp để tổng hợp, khắc phục theo thẩm quyền.

Quy định về quản lý biên chế, số lượng người làm việc như trên cũng là một bất cập đối với việc thực hiện chức năng quản lý của ngành giáo dục bởi việc xác định số lượng người làm việc tại những đơn vị ngoài việc căn cứ vào vị trí việc làm còn cần được xem xét dựa vào khối lượng công việc và những yếu tố đặc thù của ngành.

Trên thực tế, Sở Nội vụ là cơ quan chủ trì tham vấn cho UBND tỉnh ban hành những quyết định về giao mục tiêu biên chế, số lượng người làm việc và đề án vị trí việc làm của những đơn vị ở tất cả những ngành, ko thể nắm rõ đặc thù của từng đơn vị ngành giáo dục như Sở GD&ĐT. Đây cũng là một trong những điểm bất cập trong công việc quản lý nhà nước của ngành giáo dục làm tác động tới công việc quản lý tài chính đối với những đơn vị ngành giáo dục.

Rate this post

Bình luận