Tình hình phát triển dịch vụ hậu cần thủy sản nước ta( số liệu tham khảo)

Trong những năm qua, ngành sản xuất thủy sản nước ta đã đạt được những thành tựu đáng ghi nhận cả về sản lượng và trị giá; Năm 2011, sản lượng khai thác thủy sản đạt trên 2,52 triệu tấn (tăng gấp 6,1 lần so với năm 1990); kim ngạch xuất đạt trên 6,11 tỷ USD (tăng gấp 29,8 lần so năm 1990, năm 2013 sản lượng khai thác ước đạt 2,661 triệu tấn, xuất khẩu đạt khoảng 6,5 tỷ USD và năm 2014 xuất khẩu ước đạt khoảng 7 tỷ USD.Việt Nam thuộc trong nhóm 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu toàn cầu. Tune từ năm 2001-2011, kinh tế thủy sản chỉ đóng góp vào GDP chung toàn quốc trung bình khoảng sắp 3% GDP/năm. Đây là một con số vô cùng khiêm tốn chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của một quốc gia biển.

Hơn nữa tới bây giờ ngành thủy sản nước ta vẫn chưa thoát khỏi hình bóng của một nghề cá thủ công, trình độ sản xuất nhỏ lẻ, quy mô hộ gia đình, phát triển tự phát theo cơ chế thị trường, vẫn là một ngành khai thác tài nguyên tự nhiên theo kiểu tận thu, những hoạt động nhà cung cấp hậu cần thủy sản còn quá lạc hậu, chất lượng hải sản chưa được đảm bảo. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua thủy sản lấy xuất khẩu làm mũi nhọn, tạo tài chính để nhập khẩu thiết bị kỹ thuật chế biến. Do thiếu những cơ chế, chính sách, thiếu tầm nhìn xa, nên thành tựu xuất khẩu thủy sản đã ko sở hữu tác động tích cực tới phát triển ngành công nghiệp cơ khí phục vụ chế biến thủy sản. Vì thế, trong ngành sản xuất vật liệu, nghề cá vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạc hậu từ khai thác hải sản, tới sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh vật học và chế biến xuất khẩu.

Về công việc dự đoán thị trường tiêu thụ thủy sản trong và ngoài nước còn rất hạn chế, nhất là công việc đầu tư xúc tiến thương nghiệp còn chậm, thiếu kinh nghiệm, những doanh nghiệp tự xoay xở trong cơ chế thị trường, tự tìm đầu ra cho sản xuất. Do ko chủ động được thị trường nhiều doanh nghiệp sản xuất cầm chừng, ko thể xây dựng được chiến lược kinh doanh, chiến lược sản phẩm. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu do thiếu tri thức thương nghiệp thị trường, thiếu vốn đầu tư, thiếu những chính sách tương trợ đúng đắn, kịp thời của Nhà nước; công việc thống kê thủy sản bị thả lỏng, sự thiếu quy hoạch giữa sản xuất vật liệu và nhà máy chế biến đã dẫn tới tình trạng thiếu nguồn vật liệu, dư thừa công suất sản xuất. Theo thống kê của VASEP, một số nhà máy chế biến thủy sản được đầu tư rất to, trong lúc đó công suất thực tế hoạt động chỉ đạt 50-70% tùy thuộc từng nhà máy. Việc đầu tư ko sở hữu hiệu quả đồng nghĩa với việc tăng giá thành sản xuất, giảm khả năng khó khăn trên thị trường. Công việc quản lý, kiểm soát an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, đáp ứng quy chuẩn, tiêu chuẩn, chưa thực hiện tốt từ khâu sản xuất vật liệu tới bảo quản sau thu hoạch và chế biến, công việc rà soát giám sát chất lượng, tới nay nước ta vẫn chưa sở hữu thanh tra chuyên ngành về chất lượng, an toàn vê ̣sinh thủy sản.

Với thể nói tới nay, ngành thủy sản vẫn rất lúng túng trong chiến lược phát triển theo chiều sâu, đặc trưng trong ngành nhà cung cấp hậu cần từ khai thác, chế biến, tiêu thụ tới xuất khẩu.

Nếu so sánh với Thái Lan một nước sở hữu diện tích biển, đảo chỉ bằng khoảng 60% diện tích biển nước ta thì ngành thủy sản nước ta còn nhiều hạn chế trong khâu chế biến và xuất khẩu (năm 2014).

Tương tự với những tiềm năng và lợi thế vượt trội về diện tích biển và nguồn lực con người trong khái thác thủy, hải sản thì chúng ta vẫn là nước chậm phát triển, hơn nữa là một quốc gia biển, nhưng hàng năm nước ta vẫn là nước nhập khẩu thủy sản từ Thái Lan, chỉ tính trong 8 tháng đầu năm 2014 Việt Nam tăng mạnh nhập khẩu thủy sản từ Thái Lan với trên 17 nghìn tấn, trị giá 70 triệu USD và hiện tại Việt Nam là nước nhập khẩu đứng thứ 13 đối với thủy sản của Thái Lan. Mặc dù ko phải là quốc gia biển nhưng theo Tổ chức lương thực toàn cầu (FAO) thì ngành thủy sản của Thái Lan cũng đóng góp khoảng 2,5 % GDP của xã hội.

Rate this post

Bình luận