Chi thường xuyên NSĐP cho GDCL ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011-2017

Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục huấn luyện, tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện nhất quán việc ưu tiên dành nguồn lực cho giáo dục, đảm bảo tỷ lệ chi NSĐP cho giáo dục khoảng 20% tổng chi NSĐP và duy trì ổn định trong giai đoạn 2011-2016.

Số liệu ở bảng 2.9 cho thấy chi NSĐP cho GDCL ở tỉnh Thanh Hóa duy trì tỷ lệ ổn định so với GDP (khoảng từ 5,9-7,4% GDP) và chiếm trên 20% trong tổng chi NSĐP. Điều này thích hợp với định hướng ưu tiên phát triển giáo dục huấn luyện của Đảng và Nhà nước và được tỉnh quán triệt ngay trong chỉ thị về xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội và dự toán ngân sách nhà nước màu năm. Trong quá trình tham vấn cho chính quyền địa phương quản lý dự toán thực hiện những nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh nói chung, nhiệm vụ phát triển giáo dục huấn luyện nói riêng, cơ quan Tài chính các đơn vị quản lý ở tỉnh Thanh Hóa đã chủ động tham vấn xếp đặt, sắp xếp nguồn lực tài chính để vừa đảm bảo duy trì những hoạt động thường xuyên của ngành giáo dục, đồng thời tiết kiệm tạo nguồn để ưu tiên thực hiện một số nhiệm vụ (tăng cường cơ sở vật chất vật chất những đơn vị sự nghiệp GDĐT, tương trợ những địa phương thực hiện đầu tư phát triển giáo dục) cùng với những vốn đầu tư khác (vốn huy động xã hội hóa giáo dục). Với đặc thù là một tỉnh nghèo, dân số đông, địa bàn rộng, chi NSĐP cho GDCL tỉnh Thanh Hóa chiếm tỷ lệ chủ yếu trong tổng chi NSĐP cho GD&ĐT. Giai đoạn 2011-2017, chi NSĐP cho GDCL chiếm từ 88,5-93,5% chi NSĐP cho GD&ĐT, thể hiện sự ưu tiên phát triển giáo dục của tỉnh trong giai đoạn này.

Tốc độ tăng chi NSĐP cho GDCL biến động ko đều trong giai đoạn 2011-2017 do phụ thuộc vào khả năng nguồn lực NSĐP hằng năm. Tốc độ tăng chi NSĐP cho GDCL tương đương tốc độ tăng chi NSĐP giai đoạn 2011-2017 (trung bình giai đoạn khoảng 13%). Riêng năm 2015, tốc độ tăng chi NSĐP cao hơn tốc độ tăng chi NSĐP cho GDCL do tăng chi đầu tư phát triển từ nguồn thu tiền sử dụng đất so với dự toán (1.400 tỷ đồng). So với quy mô nền kinh tế thì tổng chi NSĐP cho GDCL tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011-2017 chiếm khoảng 5-7% GDP, tương đương mức bình quân của cả nước (Biểu đồ 2.3).

Nhu cầu chi thường xuyên để duy trì hoạt động của những cơ sở vật chất GDCL tỉnh Thanh Hóa là rất to. Thanh Hóa một tỉnh đông dân, mang nhiều đơn vị hành chính nhất cả nước với 27 đơn vị hành chính cấp quận và tương đương, mang 573 xã, 34 phường, 28 thị trấn và 6.031 thôn, xóm, bản làng; trong đó mang 184 xã miền núi và 12 thị trấn miền núi (số liệu năm 2014). Tỉnh mang 6 quận, thị xã thuộc vùng ven biển, 11 quận thuộc vùng núi và 10 quận, thị xã, thành thị trấn thuộc vùng đồng bằng. Ngoài ra, địa hình Thanh Hóa mang đủ 03 dạng: núi, trung du và đồng bằng ven biểu. Chính những đặc điểm về dân số, hành chính và địa hình tương tự, làm cho nhu cầu chi thường xuyên để đảm bảo hoạt động của những cơ sở vật chất GDCL trên khu vực tỉnh là rất to. Chi thường xuyên NSĐP cho GDCL giai đoạn 2011-2017 chiếm khoảng 90% tổng chi NSĐP cho GDCL và chiếm từ 36,2-40,6% tổng chi thường xuyên NSĐP. Chi thường xuyên NSĐP cho GDCL chủ yếu để đảm bảo nhu cầu chi trả tiền lương, những khoản phụ cấp, những khoản mang tính chất lương cho cán bộ quản lý giáo dục, thầy giáo, viên chức quản lý tại những cơ sở vật chất GDCL trên khu vực tỉnh. Đồng thời, đảm bảo chi trả kinh phí thực hiện những chế độ, chính sách ngành giáo dục theo quy định.

Ngoài ra, căn cứ khả năng nguồn lực của NSĐP trong từng thời kỳ cụ thể, tỉnh còn tiết kiệm nguồn kinh phí SNGD để tăng cường cơ sở vật chất vật chất cho ngành giáo dục (mở rộng, nâng cấp những trường THPT để đạt tiêu chuẩn trường chuẩn quốc gia tới năm 2020, tương trợ tăng cường cơ sở vật chất vật chất ngành giáo dục…).

Do nhu cầu chi thường xuyên để thực hiện nhiệm vụ to, định mức phân bổ chi NSĐP cho GDCL lại chỉ đảm bảo chế độ cho biên chế được cấp mang thẩm quyền giao và một phần đảm bảo kinh phí chi nghiệp vụ; dự toán chi NSĐP cho GDCL do cơ quan tài chính thẩm định chủ yếu dựa trên dự toán đề xuất của những đơn vị ngành giáo dục, chưa mang sự tổng hợp, đối chiếu với những mục tiêu tổng thể của ngành để lựa chọn thứ tự ưu tiên thực hiện những nhiệm vụ; Ngành giáo dục cũng chỉ giới hạn lại ở việc xây dựng kế hoạch và tổng hợp dự toán của những đơn vị trực thuộc chứ chưa rà soát, tổng hợp đầy đủ những nhiệm vụ và dự toán toàn ngành nên vẫn còn tình trạng bổ sung dự toán trong quá trình chấp hành, dẫn tới độ tin cậy của dự toán chưa cao.

Giai đoạn 2011-2017, dự toán chi NSĐP cho GDCL cơ bản vượt dự toán. Riêng năm 2015 thực hiện ko đạt dự toán do dự toán kinh phí thực hiện một số chế độ, chính sách mới ủy quyền những quận, thị xã, thành thị trấn dự kiến cao hơn so với nhu cầu thực tế phát sinh. Những năm còn lại, chênh lệch tổng thực hiện so với dự toán từ 0,64 % (năm 2016) tới 44,17 % (năm 2012). Phần kinh phí tăng so với dự toán cao ở năm 2012 do tăng kinh phí thực hiện những chế độ, chính sách mới được phân bổ cho những địa phương, đơn vị trong năm (phụ cấp thâm niên nhà giáo; chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức công việc ở vùng mang điều kiện kinh tế – xã hội đặc thù khó khăn). Những năm còn lại, quyết toán cao hơn so với dự toán do một số nội dung chưa giao trong dự toán đầu năm của những địa phương, đơn vị dự toán: kinh phí thực hiện đề án mở rộng, nâng cấp một số hạng mục để đạt tiêu chí trường THPT đạt chuẩn quốc gia tới năm 2020; mở rộng, nâng cấp nhà ở nội trú cho học trò những trường THCS, THPT những quận miền núi cao…..

Chi thường xuyên NSĐP cho GDCL tập trung chủ yếu ở cấp quận, xã. Theo cơ chế phân cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi NSĐP giai đoạn 2011-2016 và 2017-2020 thì ngân sách cấp tỉnh chỉ thực hiện chi đảm bảo hoạt động của những trường THPT, trường phổ thông 02 cấp học trong đó mang cấp THPT, trường DTNT tỉnh, những hoạt động giáo dục khác do tỉnh quản lý và những hoạt động sự nghiệp toàn ngành. Những nhiệm vụ chi thường xuyên NSĐP cho GDCL tập trung chủ yếu ở những quận, thị xã, thành thị trấn (chi đảm bảo hoạt động của những trường măng non, tiểu học, THCS). Vì vậy, chi thường xuyên ngân sách cấp tỉnh cho GDCL chỉ chiếm từ 11-16.9% tổng chi thường xuyên NSĐP cho GDCL, chi thường xuyên ngân sách quận cho GDCL chiếm khoảng 83-89%.

Cơ cấu chi NSĐP cho GDCL theo cấp học thay đổi thích hợp với thực trạng phát triển giáo dục địa phương. Cùng với việc bảo đảm xếp đặt chi NSĐP cho GDCL đảm bảo tỷ lệ Trung ương quy định, ko thấp hơn số Trung ương giao, cơ cấu chi NSĐP cho các đơn vị quản lý học đã mang sự thay đổi theo hướng tăng dần tỷ lệ chi NSĐP cho giáo dục măng non, giảm tỷ lệ chi NSĐP cho những hoạt động giáo dục khác (GDTX, trung tâm bồi dưỡng chính trị….).Cơ cấu chi tiêu cho các đơn vị quản lý học tương tự thích hợp với quy hoạch phát triển SNGD tỉnh Thanh Hóa và lộ trình thực hiện sắp xếp lại những trường măng non, phổ thông công lập. Tỷ lệ chi NSĐP cho giáo dục măng non, tiểu học và THCS duy trì ổn định trong giai đoạn 2011-2017 (do số lượng học trò ở những bậc học này ko mang biến động nhiều) trong lúc đó, tỷ trọng chi NSĐP cho giáo dục THPT mang xu hướng giảm lúc số lượng học trò THPT giảm từ 130,5 nghìn học trò năm 2011 xuống 92,8 nghìn học trò năm 2016 và 93,9 nghìn học trò năm 2017. Tỷ trọng chi NSĐP cho giáo dục măng non ở Thanh Hóa thấp hơn mức bình quân chung của cả nước trong những năm 2011-2013, tương đương mức bình quân chung của cả nước giai đoạn 2014-2016. Chi NSĐP cho tiểu học thấp hơn mức bình quân chung cả nước trong lúc chi cho THCS và THPT xấp xỉ mức bình quân chung của cả nước.

Tuy nhiên, cơ cấu chi thường xuyên NSĐP cho GDCL chủ yếu là chi lương, những khoản phụ cấp, những khoản mang tính chất lương và những khoản đóng góp theo lương, tỷ lệ chi nghiệp vụ chuyên môn thấp. Do số lượng cán bộ thầy giáo to, đặc thù là những quận miền núi mang nhiều trường còn phải tổ chức những điểm trường lẻ nên chi thường xuyên NSĐP cho GDCL tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011-2017 chủ yếu đảm bảo nhu cầu rót vốn lương và những khoản mang tính chất lương (khoảng 89%), tỷ lệ chi nghiệp vụ chuyên môn thấp (khoảng 11%).

Ngoài ra, chi thường xuyên NSĐP bình quân 01 học trò ở các đơn vị quản lý học giai đoạn 2011-2017 chưa phản ánh đúng định hướng ưu tiên cho phát triển giáo dục các đơn vị quản lý học. Qua tính toán từ số liệu quyết toán chi NSĐP cho GDCL, chi thường xuyên NSĐP cho 01 học trò măng non năm 2011 cao đột biến so với những năm còn lại trong giai đoạn do trong năm 2011 những trường măng non bán công chưa thực hiện chuyển đổi thành trường măng non công lập. Số liệu tính toán trên cơ sở vật chất chi thường xuyên NSĐP cho giáo dục măng non và số học trò măng non tại những cơ sở vật chất giáo dục công lập.

Từ năm 2012-2017, chi thường xuyên NSĐP tăng dần và ổn định, mức chi bình quân tăng cao ở năm 2014 do thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục cho trẻ 5 tuổi. Với mục tiêu thực hiện phổ cấp giáo dục tiểu học, mức chi bình quân 01 học trò tiểu học cao hơn so với các đơn vị quản lý học khác là thích hợp. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2011-2017, mức chi thường xuyên NSĐP cho 01 học trò THCS là cao nhất. Nguyên nhân của tình trạng này là do định mức phân bổ kinh phí cho những cơ sở vật chất GDCL tính theo số biên chế được cấp mang thẩm quyền giao. Trong giai đoạn này, số cán bộ, thầy giáo THCS dôi dư là 1.604 (tính tới tháng 8/2014) làm cho kinh phí chi lương và những khoản mang tính chất lương tăng lên. Trong lúc đó, khối tiểu học thiếu so với định mức thầy giáo/lớp là 1.979 thầy giáo làm cho mức chi bình quân 01 học trò giảm so với nhu cầu theo định mức. Tương tự, việc tuyển dụng, xếp đặt cán bộ, thầy giáo ko hợp lý là một nguyên nhân cơ bản làm cho tầm giá tính cho 01 học trò ở các đơn vị quản lý học ko hợp lý. Khối THPT mang mức chi bình quân 01 học trò tăng ở những năm 2015-2017 do đề án mở rộng, nâng cấp những trường THPT để đạt chuẩn quốc gia tới năm 2020 được thực hiện từ nguồn kinh phí SNGD thuộc chi thường xuyên NSĐP cho GDCL giai đoạn 2015-2017.

Giao dự toán kinh phí NSĐP cho GDCL ở tỉnh Thanh Hóa được thực hiện như sau: Trên cơ sở vật chất quyết định phê duyệt phương án phân bổ chi NSĐP của UBND tỉnh, Sở Tài thẳng thắn tiếp giao kinh phí cho Sở GD&ĐT và những trường THPT (đơn vị dự toán thuộc tỉnh quản lý); đồng thời, thông tin dự toán chi NSĐP cho những quận, thị xã, thành thị trấn (trong đó mang chi NSĐP cho GDCL).

Sau lúc UBND cấp quận ban hành quyết định phê duyệt phương án phân bổ ngân sách quận, phòng kế hoạch tài chính cấp quận phân bổ, giao kinh phí cho phòng GD&ĐT và những trường măng non, tiểu học, THCS (đơn vị dự toán thuộc cấp quận quản lý).

Tương tự, cơ quan GD&ĐT tỉnh Thanh Hóa chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục, ko tham gia vào quản lý và cấp phát kinh phí cho những đơn vị thuộc ngành. Toàn bộ nhiệm vụ quản lý tài chính đối với những đơn vị dự toán ngành giáo dục do cơ quan tài chính các đơn vị quản lý ở địa phương thực hiện.

Chi NSĐP cho GDCL đã góp phần đáng kể vào những kết quả của ngành giáo dục trong giai đoạn 2011-2017. Quy mô giáo dục phát triển hợp lý, chất lượng giáo dục đại trà được nâng lên; kết quả thi học trò giỏi quốc gia, quốc tế và thi đại học luôn ở tốp đầu cả nước. Việc thực hiện chủ trương đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục ở các đơn vị quản lý học, bậc học mang chuyển biến; chất lượng giáo dục miền núi được nâng lên; phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS được giữ vững; hoàn thành phổ cập giáo dục măng non cho trẻ 5 tuổi trước thời hạn; đã chuyển những trường măng non bán công sang công lập; chỉ đạo khắc phục thầy giáo dôi dư và chỉnh đốn việc tuyển dụng, điều chuyển, bổ nhiệm cán bộ, thầy giáo; từng bước khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định và lạm thu trong những nhà trường. Tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 51,1%, vượt mục tiêu đại hội. Phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập được đẩy mạnh, đứng ở tốp đầu cả nước. Kết quả hoạt động của ngành giáo dục trên những mặt cụ thể như sau:

Số lượng trường măng non tăng từ 127 trường niên học 2010-2011 lên 662 trường niên học 2016-2017 do thực hiện chuyển đổi những trường măng non bán công sang công lập thích hợp với điều kiện phát triển của từng vùng. Trong lúc đó, số lượng những trường tiểu học và THCS giảm từ 727 trường tiểu học, 650 trường THCS niên học 2010-2011 xuống còn 694 trường tiểu học và 629 trường THCS. Sự giảm số lượng những trường tiểu học, THCS do thực hiện quy định về sắp xếp những trường măng non, tiểu học, THCS và trường phổ thông mang nhiều cấp học trên khu vực tỉnh để tăng hiệu quả hoạt động của những trường, tránh lãng phí nguồn lực. Theo đó, mỗi xã phường, thị trấn mang 01 trường măng non công lập (637 xã, phường, thị trấn); 01 trường tiểu học công lập mang từ 10 lớp trở lên (quy mô học trò tối thiểu theo vùng, miền: núi cao 200 học trò; núi thấp 250 học trò; trung du, đồng bằng, ven biển: 270 học trò; thành thị trấn, thị xã: 300 học trò); 01 trường THCS công lập mang từ 08 lớp trở lên (quy mô học trò tối thiểu theo vùng miền: núi cao 254 học trò; núi thấp 280 học trò; trung du, đồng bằng, ven biển: 296 học trò; thành thị trấn, thị xã: 312 học trò) [70].

Số lượng những trường măng non, tiểu học, THCS được sắp xếp lại và phát triển theo hướng hợp lý đã góp phần gia tăng số lượng học trò tới trường ở các đơn vị quản lý học. Giai đoạn 2011-2017, mục tiêu về duy trì tỷ lệ trẻ tới trường ở các đơn vị quản lý học cơ bản đạt được. Tỷ lệ huy động trẻ 5 tuổi đi học mẫu giáo năm 2017 đạt 100%, tỷ lệ huy động trẻ đi vườn trẻ (3-5 tuổi) đạt 115,33%. Tỷ lệ học trò đi học tiểu học đạt 100%, THCS đạt khoảng 95%, THPT đạt từ 60-69%. Tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi ở các đơn vị quản lý học cũng cơ bản đạt mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn. Trong đó, tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt trên 98%; cấp THCS đạt từ 93-97%; cấp THPT đạt khoảng 60% (riêng niên học 2016-2017 đạt 85%). Hoàn thành phổ cập giáo dục măng non cho trẻ em 5 tuổi vào tháng 4/2015; Kết phổ quả cập giáo dục tiểu học và THCS đúng độ tuổi được duy trì và giữ vững.

Rate this post

Bình luận