Những bất cập trong quản lý thuế thu nhập cá nhân tại thành phố Hồ Chí Minh

Về quản lý thuế tại Tp.HCM, hiện nay phương thức quản lý của Cục thuế Tp.HCM vẫn chủ yếu là dựa vào lý thuyết tâm lý hành vi phổ biến mà chưa quan tâm tới lý thuyết tuân thủ của NNT. Điều này đem lại nhiều bất cập trong quản lý thuế.
Với thể nhận thấy, việc quản lý thuế TNCN theo lý thuyết tâm lý hành vi phổ biến đang vận dụng tại Cục thuế Tp.HCM được thực hiện thông qua những phương tiện quản lý chủ yếu là thanh tra, rà soát, xử phạt và cưỡng chế để buộc đối tượng nộp thuế thực hiện. Những giải pháp này mang tính răn đe cao, nhưng hiệu quả nộp thuế thấp.
Xem xét lại những tình huống ở nội dung 3.1.2 với thể nhận xét:
– Trong tình huống 1: Điện máy Nguyễn Kim trốn thuế trong thời kì dài, chỉ phát hiện lúc thanh tra, rà soát thuế, đồng thời Nguyễn Kim chỉ nộp thuế lúc cơ thuế quan thực hiện cưỡng chế thuế.
Trường hợp này với thể coi là hành vi “cố tình ko tuân thủ”; bởi vì doanh nghiệp này với hiểu biết về pháp luật thuế TNCN, với hiểu biết về nghĩa vụ nộp thuế nhưng cố tình ko nộp và tìm mọi cách để trốn thuế trong thời kì dài. Mặc dù vận dụng giải pháp cưỡng chế để răn đe và truy thu thuế music với thể thấy là mất rất nhiều thời kì trước lúc phát hiện sự việc (10 năm) và thời kì để xử lý vụ việc cũng kéo dài (với thể hơn 90 ngày), và cơ thuế quan luôn trong tình trạng thụ động (ko trực tiếp phát hiện được sai phép của đối tượng bị quản lý, mà phải nhờ sự tố cáo của cán bộ viên chức điện máy Nguyễn Kim, và ko thể kết thúc vụ việc phải đợi ý kiến chỉ đạo của Tổng cục thuế và Bộ Tài chính hoặc phải tranh tụng tại tòa). Qua tình huống này, chúng ta với thể thấy mô phỏng quản lý theo lý thuyết hành vi phổ biến còn rất nhiều hạn chế.
– Trong tình huống 2: Tư nhân với thu nhập khủng từ Google:
Đối với tình huống của tư nhân với thu nhập khủng từ Google, chúng ta với thể thấy việc với TNCN phát sinh trong thời kì dài (từ năm 2014 tới 2017), tuy nhiên vụ việc chỉ được phát hiện lúc Cục thuế TP.HCM tiến hành rà soát số liệu từ những giao dịch với Google và được biết tư nhân này tạm trú tại Tp.HCM nhưng với hộ khẩu tại tỉnh Quảng Nam và được Google chi trả 727.000 đô la Mỹ Mỹ (tương đương 17 tỷ đồng) trong giai đoạn 2014-2017 nhưng ko nộp thuế TNCN theo quy định. Vụ việc diễn biến rất phức tạp lúc Cục thuế Tp.HCM nhiều lần gửi giấy mời làm việc nhưng tư nhân ko còn ở liên hệ tạm trú. Được biết tư nhân với hộ khẩu thường trú tại Quảng Nam, Cục thuế Tp. HCM đã phối hợp với Cục thuế tỉnh Quảng Nam gửi giấy mời làm việc và sau đó tư nhân đã đề nghị được hướng dẫn để hoàn thành nghĩa vụ thuế TNCN đối với Nhà nước.
Chúng ta với thể thấy hành vi của tư nhân này là “ko muốn tuân thủ”, mặc dù tư nhân với hiểu biết về việc với thu nhập thì phải với nghĩa vụ nộp thuế, nhưng ko với hiểu biết về loại thu nhập nào phải nộp thuế và nộp thuế bao nhiêu. Chỉ lúc cơ thuế quan phát hiện với giải pháp thích hợp thì tư nhân đó mới đề nghị hướng dẫn tính toán thu nhập và thuế TNCN của mình để nộp thuế.
– Trong tình huống 3 và 4: Đối với những tư nhân kinh doanh với thu nhập từ mạng xã hội Google và Fb.
Đối với tình huống của tư nhân với thu nhập từ mạng xã hội Google hoặc Fb, với thể thấy công việc quản lý thuế TNCN thật sự với vấn đề. Bởi dù sự việc đã diễn ra trong 2 năm (2016-2017) tuy nhiên những chức năng quản lý thuế như quản lý kê khai thuế TNCN, thanh rà soát thuế TNCN đã ko phát hiện ra, mà sự việc chỉ được phát hiện lúc Cục thuế Tp.HCM tiến hành rà soát số liệu từ những giao dịch với Google và Fb.
Sau lúc rà soát số liệu từ những giao dịch và phát hiện những tư nhân với thu nhập nhưng ko kê khai và nộp thuế TNCN theo quy định, Cục thuế Tp.HCM mời tư nhân này lên làm việc và tư nhân này thừa nhận là chưa thực hiện nghĩa vụ thuế, cam kết sẽ tự nguyện khắc phục hậu quả. Tương tự, với thể thấy đây là hành vi ko hiểu biết về pháp luật thuế và nghĩa vụ nộp thuế, nhưng đã nỗ lực tuân thủ thực hiện nghĩa vụ kê khai và nộp thuế lúc được cơ thuế quan tuyên truyền giáo dục pháp luật thuế.
Qua trường hợp này, chúng ta với thể nhận thấy, quá trình trên phản ánh nội dung quản lý thuế TNCN theo lý thuyết tâm lý hành vi phổ biến. Cơ thuế quan thông qua những phương tiện quản lý chủ yếu là thanh tra, rà soát, xử phạt và cưỡng chế thuế để buộc đối tượng nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của mình.
Việc quản lý thuế TNCN theo lý thuyết này mang tính răn đe cao, nặng về xử phạt mà chưa hướng tới xúc tiến NNT tự nguyện tuân thủ thuế TNCN để hình thành tâm lý tuân thủ vững bền. Mặc dù trong công việc quản lý thuế, những phương tiện thanh tra, rà soát và cưỡng chế nợ thuế TNCN được tăng cường, music mức độ tuân thủ của NNT vẫn chưa được cải thiện. Số vụ việc vi phạm vẫn tăng cao; hoạt động thanh tra, rà soát luôn phải nỗ lực vượt bậc, nhưng cũng ko hạn chế được những hành vi trốn, tránh nghĩa vụ nộp thuế TNCN.
Vì vậy, việc chuyển từ lý thuyết tâm lý hành vi phổ biến sang quản lý thuế hiện đại theo lý thuyết hành vi tuân thủ của NNT là cần thiết, là thế tất để tăng cường hiệu quả quản lý thuế vững bền.

Rate this post

Bình luận